Ngày 2 tháng 2 năm 1949 tại làng Ndut Liêng Krak thuộc vùng Cao nguyên tỉnh Đaklak, một nhóm phu làm đường trong lúc làm công việc san lấp, đã phát hiện 11 thanh đá lạ. Những thanh đá này, theo quan sát thông thường thì rõ ràng có bàn tay chế tác của con người chứ không phải đá tự nhiên. Để tiện việc hình dung ra những thanh đá, xin mô tả một số nét chính. Đây là những thanh đá có hình dáng thuôn dài, màu xám đậm. Thanh dài nhất 101,7 cm, nặng 11,210 kg; thanh ngắn nhất 65,5 cm, nặng 5,820 kg.
Phát hiện này đã được báo cáo cho giáo sư khảo cổ học người Pháp là Georges Condominas lúc đó đang làm việc tại Viện Viễn Đông Bác cổ ( Hà Nội ). Tháng 6 năm 1950, giáo sư G. Condominas đưa những thanh đá này về Paris và chúng được nghiên cứu bởi giáo sư âm nhạc André Schaeffner.
Khi tạp chí Âm nhạc học ( năm thứ 33 – bộ mới ) số 97-98 tháng 7 năm 1951 đăng tải công bố của giáo sư Schaeffner: “ Một phát hiện khảo cổ học quan trọng – đàn lithophone ở Ndut Liêng Krak ( Việt Nam ), có thể nói đã tạo một chấn động lớn trong giới khảo cổ học, dân tộc học, văn hóa học, âm nhạc học, và rất nhiều các ngành học về xã hội, nghệ thuật khác nữa. Giáo sư dân tộc học người Nga R.L.Sadekov nhận xét: “nó không giống bất cứ một nhạc cụ bằng đá nào mà khoa học đã biết,….” do đó “ngành nghiên cứu lịch sử nhạc cụ có một tài liệu qúy báu cho phép vươn tới một thời đại mà cho đến nay các nhà âm nhạc học chưa hề nghiên cứu tới”.
Bộ thứ hai theo lời kể lại, có 6 thanh nhưng đã thất lạc 3, còn lại 3 thanh, được phát hiện bởi ông J.Boulbet tại nhà ông K’Brôih, một người dân tộc Mnông –Maa vùng B’lao vào năm 1958. Do hoàn cảnh, chiến tranh, các nhà khoa học cũng như nghiên cứu âm nhạc không có điều kiện để tiếp tục sưu tầm, khảo sát về những bộ Đàn Đá Việt Nam, và vấn đề chỉ được khơi dậy và sôi nổi kể từ năm 1979 . Ngay từ năm 1976, Viện Nghiên Cứu Âm Nhạc Việt Nam cơ sở II tại Sài Gòn – nơi mà kẻ viết bài này đã có gần 20 năm học tập và làm việc với tư cách là một chuyên viên nghiên cứu (1978- 1997) –đã có kế hoạch sưu tầm, phát hiện Đàn Đá tại miền Nam Việt Nam . Từ tháng 2 -1979 một loạt các phát hiện quan trọng về Đàn Đá được ghi nhận như sau:
Sau những phát hiện dồn dập đó là các bước nghiên cứu, làm việc tiếp theo của rất nhiều ngành khoa học như dân tộc, khảo cổ địa chất, âm nhạc học, Và sự tìm tòi, thể nghiệm trong sáng tác, trình diễn Đàn Đá của rất nhiều các nhạc sĩ sáng tác, các nghệ sĩ trình diễn .
Có thể nêu một cách hết sức tóm lược những kết qủa nghiên cứu về các bộ Đàn Đá Việt Nam của nhiều chuyên ngành như sau:
1. Thứ nhất: Về sự phân bố Đàn Đá . Những bộ Đàn Đá đều được phát hiện tại các vùng trung du và thượng du các tỉnh từ Phú Yên kéo dài đến Biên Hòa, Đồng Nai. Miền đồng bằng, miền Bắc, miền Trung (cho tới Phú Yên) và miền châu thổ sông Cửu Long chưa hề phát hiện bộ Đàn Đá nào
2. Thứ hai: Về tuổi của các bộ Đàn Đá Nên nhớ rằng, tuổi của các bộ Đàn Đá không phải là tuổi của những thanh đá (mà tuổi của chúng có thể là nhiều triệu năm). Tuổi của Đàn Đá chính là tuổi cuả những vết ghè đẽo do bàn tay con người chế tác trên các thanh đá. Bằng những phương pháp khoa học hiện đại, các nhà khoa học Đức đã xác định tuổi của những bộ Đàn Đá Việt Nam là khỏang 3500 năm (sai số 100) cho những bộ xuất hiện sớm nhất và 2500 năm (sai số 100) cho những bộ xuất hiện muộn hơn
3. Thứ ba: về chất liệu đá của các bộ đàn . Những bộ Đàn Đá phát hiện ở Việt Nam (kể cả bộ đang trưng bày tại Bảo tàng viện Con Người – Paris) đều được chế tác từ 2 loại đá có ở vùng thượng du và trung du các tỉnh từ Đaklak đến Biên Hòa. Đây là 2 loại đá sản sinh từ nham thạch núi lửa, có đặc tính phát ra âm thanh (không như đá thông thường khi gõ vào chỉ phát ra tạp âm). Loại đá thứ nhất có tên khoa học là Rhryolite-Porphire, tính chất rất cứng. Loại đá thứ hai có tên Việt Nam là đá Sừng, không cứng bằng loại thứ nhất, có pha trộn nhiều hạt nhỏ màu trắng bên trong và dễ ghè đẽo hơn loại trước. Tất nhiên cả hai loại đá đều phát ra âm thanh để có thể chế tạo Đàn Đá. Loại Đá Rhryolite được ghi nhận ở các bộ Đàn Đá Khánh Sơn (Khánh Hoà), Bác Ái (Ninh Thuận ), Tuy An (Phú Yên). Loại đá Sừng được thấy ở các bộ đàn Ndut Liêng Krak (Đaklak), B’lao (Lâm Đồng ), Bình Đa (Biên Hòa), Lộc Ninh (Bình Phước) .
4. Thứ tư: Đàn Đá với các tính chất của một nhạc khí. Cần phải phân biệt giữa một giàn đàn Đá với một tập hợp những viên, những thanh đá kêu một cách tình cờ. (Đồng bào một số dân tộc ít người ở các vùng có phát hiện Đàn Đá thường có thói quen nhặt các viên, các thanh đá kêu về, treo ngoài nương rẫy, treo bên suối rồi lợi dụng sức gió, sức nước tạo một hệ thống tự động phát ra các âm thanh, nhằm xua đuổi chim thú phá hại hoa màu, và cũng là để giải trí cho con người).
Dàn Đàn Đá phải là một tập hợp các thanh đá có chủ định, có sự chế tác thông qua các vết ghè đẽo, có sự lựa chọn và sắp xếp về mặt âm nhạc (cao độ) để diễn đạt một thang âm (scale) mang tính truyền thống, đặc thù của vùng miền, thời đại và cộng đồng dân tộc ở tại thời điểm mà đàn được chế tác. Mỗi bài bản dân ca, dân nhạc, một nhạc khí được chế tác đều mang đậm bản sắc âm nhạc của vùng, miền, chủng tộc, thời đại mà bài bản hay nhạc khí đó xuất hiện.
Nói cách khác, chúng thể hiện được thứ ngôn ngữ âm nhạc mà chúng là đại diện. Đàn Đá cũng không thể là một ngoại lệ của quy luật đó, vì thế nghiên cứu ngôn ngữ âm nhạc trên Đàn Đá đã giúp chúng ta hiểu được không chỉ về âm nhạc mà còn rất nhiều lãnh vực khác trong đời sống của những sắc tộc chủ nhân của chúng. Về điểm này, các nhà âm nhạc học gần như thống nhất nhận định rằng, thang âm các bộ Đàn Đá Việt Nam là thang âm thời kỳ tiền Cổ đại, nghiã là khoảng 2500 năm trở về trước.
Nếu không là Đàn Đá – chế tác từ đá – mà lại là một cây đàn làm bằng các chất liệu khác như gỗ, thậm chí là sắt thép thì liệu có cây đàn nào tồn tại mấy ngàn năm, moi lên từ lòng đất mà vẫn cất tiếng ngân vang?
Tài Liệu Tham Khảo:
Giáo Sư Vũ Hồng Thịnh
Bình luận từ người dùng