Ngày Xuân trai gái trong thôn
Sang đò trẩy hội trống dồn năm canh
Đò sang lặng gió không trành
Mấy cô nghiêng bóng soi mình sửa ngôi.
(Đò chiều – Xuân Thiêm)
Nghề kiến trúc đã cho tôi cơ hội đi nhiều, đến với nhiều vùng miền của đất nước. Và cho tôi được trở về, với niềm đau đáu, đam mê… mong tìm thấy ở làng quê nhỏ bé của mình nói riêng và của nông thôn nói chung một điều gì đấy, giản dị thôi, mà sao lại có sức hấp dẫn đến vậy. Dẫu rằng, vùng quê nơi tôi đến hay trở về vẫn còn nghèo lắm, rất nghèo so với những đổi thay đến chóng mặt nơi phồn hoa phố thị trong nền kinh tế thị trường nghiệt ngã…
Đa phần các quốc gia trên thế giới đều tồn tại hai vùng cư trú: Đô thị và Nông thôn. Mà đã có nông thôn là có làng. Nhưng có lẽ, không ở đâu có cấu trúc làng như ở nước ta - Làng Việt. Một kiểu làng đặc trưng - sản phẩm của nền văn minh lúa nước, canh tác lạc hậu với “con trâu đi trước, cái cày theo sau".
(Xin mượn trang Wiki để tìm hiểu đôi chút về “làng”…)
Làng ngày xưa…
1. Ở nông thôn Việt Nam, việc tổ chức thành làng là cần thiết vì các lý do sau đây:
2. Trong một số làng, một số dân cư hoặc phần lớn dân cư có một nghề nghiệp khác ngoài nghề nông. Những người có cùng nghề này tập hợp với nhau để tạo thành phường. Có rất nhiều phường với các loại nghề nghiệp khác nhau như: phường gốm, phường chài, phường mộc, phường chèo, phường tuồng, ...
Bên cạnh phường, còn có hội, là tổ chức của những người có cùng sở thích, thú vui,... ví dụ: hội văn phả (các nhà Nho trong làng không ra làm quan), hội bô lão (các cụ ở trong làng), hội tổ tôm, hội vật, ...
Các phường nghề sau này chuyển thành các tổ chức phường của đô thị.
3. Ở nông thôn Việt Nam, gia tộc đóng vai trò rất quan trọng. Nếu phương Tây coi trọng vai trò của cá nhân thì phương Đông coi trọng vai trò của gia đình và gia tộc. Nhưng nếu xét ở phương đông với nhau, Trung Quốc xem gia đình nặng hơn gia tộc thì ở Việt Nam gia tộc lại quan trọng hơn gia đình. Mỗi gia tộc đều có trưởng họ (hay còn gọi là tộc trưởng), nhà thờ họ, gia phả, giỗ họ,...
Ở nhiều làng, hầu hết dân cư ở làng đó đều có quan hệ họ hàng với nhau. Việc đó còn lưu lại dấu ấn trong tên của rất nhiều làng hiện nay như: làng Đặng Xá (xá = nơi ở, Đặng Xá = nơi ở của họ Đặng), Châu Xá, Lê Xá,... Ở Tây Nguyên còn phổ biến tình trạng các thế hệ của một gia tộc sống tập trung trong một mái nhà dài, bên trong nhà đó được chia thành từng ngăn nhỏ cho các gia đình. Một nhà như thế có thể chứa đến hơn trăm người. Còn ở phần lớn miền quê Việt Nam hiện nay vẫn có gia đình có đến ba (tam đại đồng đường) hay bốn (tứ đại đồng đường) thế hệ cùng chung sống.
Vì gia tộc có vai trò quan trọng nên tôn ti của từng người cũng rất được coi trọng. Ở Việt Nam hệ thống tôn ti trong gia tộc được phân biệt rất chi li tới 9 thế hệ (gọi là cửu đại):
Kỵ (great-great-grandfather) |
Cụ (great-grandfather) | Ông (grandfather) | Cha (father) | Tôi (I) | Con (child) | Cháu (grandchild) | Chắt (great-grandchild) |
Chút (great-great-grandchild) |
Người đàn ông lớn nhất trong gia đình chịu trách nhiệm thờ cúng tổ tiên (nếu người ở vai trên không còn sống), chỉ khi người này mất đi thì việc thờ cúng sẽ chuyển sang người con trai lớn (đích tôn). Trong trường hợp, người đàn ông không có con trai thì việc thờ cúng tổ tiên sẽ chuyển sang người chú kế cận và nguyên tắc trên lại áp dụng cho gia đình người chú. Tôn ti rất được tôn trọng, một người ít tuổi, xếp theo vai vế, có thể là "ông" của một người nhiều tuổi - Bé bằng củ khoai, cứ vai mà gọi (tục ngữ).
4. Có hai loại dân cư trong làng VN:
Việc đối xử khắt khe đối với dân ngụ cư là một hình thức ngăn cản người ở làng này di chuyển sang làng khác nhằm duy trì sự ổn định của làng.
Dân chính cư được chia làm 5 hạng: Chức sắc (gồm những người đỗ đạt hoặc có phẩm hàm vua ban) - Chức dịch (gồm những người đang giữ những chức vụ nhất định trong bộ máy hành chính) – Lão – Đinh – Tráng. (Xem thêm…)
Tính cộng đồng và tự trị
Việc làng xã Việt Nam được tổ chức theo huyết thống, địa bàn cư trú, truyền thống nam giới và hành chính… ngày xưa làm cho làng có tính cộng đồng và tự trị rất cao. Tính cộng đồng làm cho các thành viên trong làng đều hướng tới nhau, đó là đặc trưng "hướng ngoại"; còn tính tự trị làm cho các làng trở lên biệt lập với nhau, đó là đặc trưng "hướng nội".
Tính biệt lập ở các làng mạnh đến nỗi mỗi làng có thể được coi như một quốc gia thu nhỏ với một "luật pháp riêng" được gọi là hương ước (lệ làng được ghi bằng văn bản) và luật tục (lệ làng được quy định bằng lời nói); và một "triều đình riêng" với hội đồng kỳ mục là cơ quan lập pháp, lý dịch là cơ quan hành pháp. Nhiều làng còn bầu bốn cụ cao tuổi là tứ trụ. Sự can thiệp của nhà nước phong kiến, và sau này của thực dân không làm ảnh hưởng nhiều đến tổ chức của làng xã. "Phép vua thua lệ làng" là một truyền thống thể hiện mối quan hệ dân chủ đặc biệt của nhà nước phong kiến với làng xã Việt Nam.
Cấu trúc làng
Tính biệt lập còn được thể hiện ở lũy tre làng. Lũy tre làng bao trùm xung quanh làng. Đó là một thành lũy rất kiên cố, "đốt không cháy, trèo không được, đào không qua". Điều này khác hẳn với các nước khác trên thế giới là dùng thành quách bằng đất đá. Việc trao đổi với thế giới bên ngoài thông qua cổng làng. Gần cổng làng thường có một cây đa, khói hương nghi ngút, đó là nơi hội tụ của thánh thần.
Ai đấy đã ví, cổng làng như một nhà ga, ở đó có đợi chờ, có chia ly, có dáng mẹ gầy xiêu xiêu suốt một đời tần tảo nuôi con, chờ chồng đằng đẵng suốt cuộc chiến tranh, có nước mắt em nhạt nhòa trong chiều muộn tiễn người yêu lên đường đi xa, có nỗi tiếc nuối, đợi chờ của anh trai làng khi “nàng” chuẩn bị lên thuyền sang bến khác…
“Đường làng tháng Giêng sẽ dài ra hút tắp Em không về, vắng một cuộc đưa dâu”.
Đi qua cổng làng, ta sẽ bước vào không gian của làng với hệ thống đường ngang, ngõ tắt như xương cá, mà đường làng là xương sống. Nhưng dù đi đến đâu, thì nhà nào nhà nấy cứ mở cổng ra là gặp ngõ, qua ngõ là đường làng. Năm này qua năm khác, thế hệ sau nối tiếp thế hệ trước, tất cả đều đi trên đường làng và đi qua cổng làng.
Bên trong của làng có một cái đình, đó là biểu tượng của làng về mọi phương diện. Đình làng là:
Nhà văn Ngô Tất Tố đã từng cho rằng, nếu như làng là một xã hội thu nhỏ, thì đình chính là hình ảnh thu nhỏ của làng.
Ban đầu đình làng là nơi tụ tập của tất cả mọi người, sau này đó chỉ là nơi tụ tập của nam giới (giáp) trong làng. Phụ nữ chuyển đến chùa làng và giếng nước. Nhiều nơi người ta còn trả thù nhau bằng cách đóng cọc vào giữa giếng làng, người ta tin rằng làm như thế thì gái làng đó sẽ không chồng mà chửa.
Đình làng với kiến trúc đặc sắc từ kỹ thuật dựng lắp đến nghệ thuật chạm khắc trên các hệ vì, bẩy, kẻ đã trở thành tinh hoa của nghệ thuật kiến trúc truyền thống.
Nhà trong làng hầu hết là nhà tranh vách đất, hoặc nhà gỗ. Bố cục nhà trong làng gần như giống nhau, có nhà chính, nhà phụ. Nhà chính thường ba gian hai chái và có hiên rộng.
Cấu trúc nhà trong làng giản dị, nhưng rất hài hòa với môi trường thiên nhiên trong lành, có ao cá, vườn cây… Chả thế mà nhiều vị quan khi về hưu, cởi bỏ mũ mão cân đai trở về làng vui thú điền viên là vậy!
Ưu nhược điểm của làng Việt Nam
Làng Nam bộ
Đến thời các chúa Nguyễn và sau này là nhà Nguyễn, việc khai phá đồng bằng Nam bộ đã làm cho làng xã ở vùng này khác hẳn so với làng xã ở cùng đồng bằng Bắc bộ. Sự khác biệt cơ bản nhất đó là tính mở ở các làng Nam bộ cao hơn rất nhiều. Tính mở được thể hiện ở những điều sau đây:
Chính vì những đặc điểm đó mà trong thời kỳ kinh tế thị trường, người dân ở các tỉnh miền Nam nhanh chóng thích nghi và phát triển kinh tế nhanh hơn các tỉnh miền Bắc.
Làng thời hiện đại
Làng Việt Nam thời hiện đại đã có những sự thay đổi nhất định so với làng trung và cận đại. Có những đặc điểm của làng cổ còn giữ được, nhưng cũng có những đặc điểm ngày nay hầu như không thể tìm thấy.
Ngày nay, làng đã thay đổi nhiều, các hương ước và luật tục tuy còn có ảnh hưởng nhất định tới công việc của làng, nhưng luật pháp nhà nước mới là yếu tố quyết định chính trong quan hệ cộng đồng. Về mặt cấu trúc, làng ngày nay đã thưa dần hình ảnh của lũy tre làng, cổng làng, giếng nước làng. Đình làng không còn đóng vai trò quan trọng như trước đây, nó chỉ còn thuần túy là nơi để thờ cúng hay giao lưu, gặp gỡ trong những ngày lễ hội.
Truyền thống gia tộc tuy vẫn còn giữ được ảnh hưởng, nhưng do ngày nay, người dân nông thôn có xu hướng thoát ly ra các thành phố lớn hoặc di cư đến những vùng khác có điều kiện sinh sống làm ăn thuận lợi hơn, nên vai trò của gia đình đã dần dần nổi trội hơn. Cũng do việc di cư mà thành phần dân cư của làng xã ngày nay đa dạng hơn, tính chất cùng huyết thống cũng đã bị giảm mạnh.
Các khái niệm như giáp, đinh, tráng nay không còn nữa do nó hoàn toàn không phù hợp với nông thôn hiện đại. Các khái niệm dân chính cư hay dân ngụ cư tuy rằng vẫn có thể hiện diện ở một vài nơi, nhưng chắc chắn nó không còn là một đặc điểm đặc trưng của nông thôn ngày nay. Các chức sắc, chức dịch cũ (quan viên, kỳ mục, kỳ dịch v.v) nay đã bị xóa bỏ.
Thời gian bôi xóa…
Trong tâm thức người dân Việt đều ít nhiều vương vấn hình ảnh một quê nhà, một cánh đồng, một ngôi làng mà tuổi ấu thơ còn mang nhiều kỷ niệm khó quên. Ai cũng từng ao ước về một ngôi làng – một cộng đồng với đầy đủ những hoài bão và cảm xúc thời tuổi trẻ của mình…
Nơi sông nước Nam bộ nhiều kênh rạch; Nơi Tây nguyên nắng lửa mưa ngàn; Nơi miền Trung cát trắng, đất sỏi gió Lào, mưa nhiều bão lắm; Nơi đất cổ, làng cổ Bắc bộ; Nơi Việt Bắc xa biển gần rừng… Ai - ở đâu - cũng đều có ngôi làng mến yêu của mình trong tâm thức.
“Trǎm nǎm dầu lỗi hẹn hò Cây đa bến cũ con đò khác đưa. Cây đa cũ, bến đò xưa Bộ hành có nghĩa nắng mưa cũng chờ”.
Và sẽ hồi phục đẹp đẽ và tươi mới hơn?...
Làng Việt - cội nguồn của dân tộc, của văn hóa truyền thống. Nó bền vững, trường tồn qua cả nghìn năm thuộc Bắc, trăm năm thuộc Tây, và đến nay qua nhiều chặng đường dài… Như một quy luật của tạo hóa có suy có thịnh. Trải qua bao chiến tranh, biến đổi, thăng trầm, Làng Việt vẫn luôn là một phần của mạch nguồn văn hóa dân tộc chảy mãi khôn cùng…
Hưng Tre Làng tổng hợp
Nguồn tham khảo:
- Wikipedia
- Kiến trúc làng trong tâm thức người Việt – PTT
- Kiến trúc làng VN - danangpt.vnn.vn
Bình luận từ người dùng