Quan niệm về miếng ăn qua ca dao, tục ngữ VN

25/08/2016 Kiến Admin
18945
0

PHẦN 01: ĐỊA PHƯƠNG NÀO, MÓN ĂN NẤY

1. Dĩ thực vi tiên

Ngày xưa, có người đã nhận thấy cái tánh cách tối quan trọng của miếng ăn trong đời sống con người nên đã chủ trương “Dĩ thực vi tiên”. Phải ăn đã, rồi muốn gì hãy hay. Văn nghệ, triết lý, tôn giáo, v.v… đều phải đứng sau cái ăn. Chẳng thế mà có người nhất định đòi hỏi ngay sự thỏa mãn cái bao tử trước khi bắt tay vào một việc đã cả gan hô hào: “Có thực mới vực được đạo”. Câu triết lý vị nhân sinh trên kéo người về thực tại, đặt trước những vấn đề cần phải giải quyết hàng ngày. Dù cho kẻ sĩ đã khuyên “Thực bất cầu bão”, nghĩa là ăn chẳng cần no, nhưng trước sự dày vò mãnh liệt của cái nhu cầu số một thì con người đạo lý cũng không thể làm gì khác hơn như thầy đồ sau đây :

Thầy đồ mà chẳng ăn khoai
Đến khi luộc, nồi ba còn hai củ hà.

Cái cười vừa trào lộng, vừa thiết thực trên đã hé cho ta thấy được một phần cái nhân sinh quan của người bình dân. Tuy nhiên, ăn thì cũng có năm bảy đường ăn. Và nghệ thuật ăn cũng đòi hỏi lắm công phu. Ăn phải thế nào? Trong một xã hội xô bồ, giữa những ý nghĩ phiền toái về nhân sinh thì miếng ăn phải được đánh giá thế nào cho hợp lý? Ta hãy thử tìm hiểu quan niệm về miếng ăn trên lãnh vực ca dao, tục ngữ.

2. Miếng ăn mang tính dân tộc

Mỗi lần nghĩ đến một địa phương nói hẹp hay một dân tộc nói rộng ra là người ta nghĩ ngay đến những món ăn của địa phương hay của dân tộc ấy. Ai lại không hay nhắc nhở đến món gỏi cá sống của người Nhật, món ca-ry cay của người Ấn, món mỳ sợi của người Ý, các thứ phô-mách của người Pháp và các món mắm đặc biệt của người Việt Nam. Trong ca dao, tục ngữ, ta thấy nhiều địa danh được nhắc nhở đến bên cạnh tên những món ăn được nêu ra. Trong nỗi nhớ thương sâu đậm quê hương, chứa đựng cái tình quyến luyến mặn nồng những món ăn địa phương, hạp với khẩu vị người từng vùng, người miền Nam thấy món canh chua cá lóc thích khẩu cũng như người miền Bắc tha thiết với món thịt nấu đông trong ba ngày Tết. Cho nên, đồng bào miền Bắc khi lìa làng mạc chẳng đã than thở :

Ra đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương
Nhớ ai giãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường đêm nao…

Nào những món ăn cố hữu, nào cảnh, nào người đúc lại, rồi cô đọng thành hình ảnh lưu luyến nặng niềm nhớ quê hương. Nếu có lìa làng xa xứ, thì lòng người dân cũng ngập ngừng, xót xa :

Ai chẳng nhớ cháo làng Ghề
Nhớ cơm phố Mía, nhớ chè Đông Viên.

Ở đất Bắc, ai lại không nhớ mãi hương vị đặc biệt :

Dưa La, cà Láng, nem Báng, tương Bần 
Nước mắm Vạn Vân, cá rô Đầm Sét.

Còn những người sành ăn thì bao giờ cũng thích :

Sáng ngày bồ dục chấm chanh
Trưa gỏi cá cháy, tối canh cá chày.

Nhất béo, nhì bùi là cá rô câu.

Trăm đám cưới chẳng bằng hàm dưới con cá trê.

Đầu chép, mép trôi, môi mè, lườn trắm.

Chắc hẳn, những món ăn đặc biệt nấu với những bộ phận của mỗi thứ cá trên đã làm khoái khẩu thực khách. Lẽ dĩ nhiên, thực khách cũng khó mà quên địa phương đã cung cấp “đồ nhắm” ấy cho mình. Rồi khách du rời miền Bắc, vào đến xứ Trung thì làm sao quên được :

Yến sào Vĩnh Sơn
Nam sâm Bố Trạch
Cua gạch Quảng Khê
Sò nghêu Quản Hà
Rượu dâu Thuần Lý.

Cái chất giải khát ủ bằng dâu rừng chua chua, ngọt ngọt của miền này đã hơn một lần đắm say lòng người trai:

Mang bầu đến quán rượu dâu
Say sưa quên hết những câu ân tình.

Rượu ở đây thật đã lấn át cả ảnh hưởng của tình ái, đã làm khách rượu quên hẳn hình ảnh yểu điệu của người thục nữ. Vô tới Huế, đất Đế đô, ta thưởng thức :

Ốc gạo Thanh Hà
Mật rú Bát Phường
Măng cày huyện Do
Gầm ghì chợ huyện
Thơm rượu Hà Trung
Mắm ruốc Cửa Tùng
Mắm nêm chợ Sãi.

Tất cả các món ăn trên đã làm cho khách khó quên được hình ảnh duyên dáng của các tỉnh đã vượt qua. Nhưng kìa, những tỉnh bên kia đèo Hải Vân như ân cần mời mọc khách. Dù lòng khách đã bâng khuâng khi trèo núi vượt đèo, nhưng cùng khuây khỏa phần nào nếu được nếm các món ăn xứ Quảng :

Nem chả Hòa Vang
Bánh tổ Hội An
Khoai lang Trà Kiệu
Thơm rượu Tam Kỳ.

Ở đây, trên eo đất hẹp lách mình giữa dãy Hoành Sơn cao ngất và biển cả mênh mông, người dân cần thấy sự phối hợp chặt chẽ giữa hai miền sơn cước và đồng bằng hơn đâu hết để chống lại thiên nhiên khắc nghiệt. Tình đoàn kết cần thiết cho sự sống còn của người miền Trung được biểu hiện trong câu ca dao :

Ai về nhắn với họ nguồn
Mít non gởi xuống, cá chuồn gởi lên.

Đất hẹp người đông, nếu bành trướng ra phía Đông thì gặp trở ngại của biển cả, nên đành quay lên rừng vỡ đất, làm quen với vùng sơn cước :Măng giang nấu cá ngạch nguồn Đến đây nên phải bán buồn mua vui.
 
Thật ra, món ăn của núi rừng có làm khuây được nỗi sầu muộn không? Coi chừng đấy, người ta không phải chỉ dùng những nét quyến rũ của một nhan sắc để nhen một 
mối tình, mà còn dùng hương vị của một món ăn mộc mạc để cám dỗ người trai xa xứ :

Cá nục nấu với dưa hường
Lơ mơ có kẻ mất chồng như chơi.

Hay là :

Thương em vì cá trích ve
Vì rau muống luộc, vì mè trộn măng.

Vào đến Quảng Ngãi, ta thưởng thức :

Chim mía Xuân Phổ
Cá bống Sơn Trà
Kẹo gương Thu Xà
Mạch nha Thi Phổ.

Đến Quy Nhơn, ta nếm được hương vị đậm đà của món bánh ít lá gai :

Muốn ăn bánh ít lá gai
Lấy chồng Bình Định sợ dài đường đi.

Vào tới Khánh Hòa, ta được dịp thưởng thức các món sơn hào hải vị :

Yến sào Hòn Nội
Vịt lội Ninh Hòa
Tôm hùm Bình Ba


Sò huyết Cam Ranh
Nai khô Diên Khánh.

Lòng khách cảm thấy thoải mái, thơ thới khi đặt chân đến miền Nam phì nhiêu, dân cư yên vui và ai lại không biết tiếng:

Biên Hòa có bưởi Thanh Trà
Thủ Đức nem nướng, Điện Bà Tây Ninh.

Bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc.

Ngoài ra, đất ở đây thì rộng, dân thì thưa thớt, cái xứ ruộng cò bay thẳng cánh, có tiếng là nơi hưởng được đời sống tương đối sung túc vì thực phẩm dồi dào :

Ba phen quạ nói với diều
Cù lao ông Chưởng có nhiều cá tôm.

Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh
Nước Tháp Mười lấp lánh cá tôm.

Ở các đảo ven bờ biển trong vịnh Thái Lan có những khu rừng sác trù mật mà các loại chim biển thường về trú ngụ, làm tổ :

Tháng Tư cơm gói ra hòn
Muốn ăn trứng nhạn phải lòn hang Mai.

Mỗi miền lại sản xuất một món ăn mang hương vị đặc biệt :

Gió đưa, gió đẩy về rẫy ăn còng
Về sông ăn cá, về đồng ăn cua.

Cá, tôm, cua, còng dồi dào đã nuôi sống người dân, nhưng vật thực cần phải thêm các loại rau cải để các món ăn đưỡc cải thiện cho thích với khẩu vị :

Mẹ mong gả thiếp về vườn
Ăn bông bí luộc, dưa hường nấu canh.

Cho đến gia vị thêm thắt vào nồi canh cá để cho món ăn đậm đà, quyến rũ hơn cũng được ca tụng :

Ví dầu con cá nấu canh
Bỏ tiêu cho ngọt, bỏ hành cho thơm.

Miền Nam cũng có nhiều món ăn đặc biệt như món hầm gà sau đây :

Khoan khoan mổ một con gà
Bí đao xắt nhỏ, tiêu cà bỏ vô.

Và các tay rượu thì không thích gì bằng:

Thứ nhất phao câu, thứ nhì đầu cánh.

 

♦♦♦

 PHẦN 2: TẬP QUÁN, LỄ NGHI QUA MỖI MÓN ĂN

1. Tập quán, lễ nghi qua mỗi món ăn

 

Các món ăn được nhắc nhở đến như thế vì đã liên hệ đến tính chất của mỗi địa phương. Cho nên, trong lễ nghi cưới xin, miếng ăn biến thành lễ vật, thay đổi tùy theo từng vùng. Sau mối tình khắn khít thì người con trai phải nhờ đến lễ nghi để hợp thức hóa cuộc sống chung tương lai.

Anh thương em chẳng ngại sang giàu
Mứt hồng đôi lượng, trà Tàu đôi cân.

Ở đây đồng đất phố phường
Để anh mua cốm, mua hồng sang sêu.

Hay là lễ vật đơn sơ:

Mâm trầu hũ rượu đàng hoàng
Cậy mai đến nói phụ mẫu nàng thì xong.
 

Hay là :

Tay bưng quả nếp vô phòng
Đèn hương đôi ngọn, chữ bá tòng cầu hôn.

Cũng có vùng lấy sản phẩm địa phương làm lễ vật :

Tiếng đồn con gái Phú Yên
Con trai Bình Thuận đi cưới một thiên cá mòi.

Cũng đôi khi cuộc tình duyên ép uổng đã làm khổ sở người con gái phải ngậm ngùi phục tùng lễ giáo, vâng lời tuyệt đối người trên, cha mẹ “đặt đâu thì ngồi đó”. Cái tập quán “ép uổng duyên con” ấy thường đi theo với sự ham muốn “môn đăng hộ đối”, sự tham lam lễ vật quá ư linh đình của nhà trai :

Mẹ tôi tham thúng xôi rền
Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hưng
Tôi đã bảo mẹ rằng: “Đừng!”

Mẹ hấm, mẹ hứ, mẹ bưng ngay vào
Bây giờ kẻ thấp người cao
Như đôi đũa lệch so sao cho bằng.

 
Lời than thân trách phận của người đàn bà bị ép duyên với người chồng không cân xứng nghe thật xót xa, não nùng. Và đây, cũng ở trong vòng tập quán, khi nghe tiếng cu kêu báo hiệu mùa hoa nở đến, ta lại liên tưởng đến Tết, đến những ngày đầu xuân rảnh rang đầy những bữa ăn ngon, bao giờ cũng có nồi chè dân tộc :Cu kêu ba tiếng, cu kêu

Trông mau tới Tết dựng nêu ăn chè.

Hồi trước, ở nhà quê, lúc chế độ xôi thịt còn đang thịnh hành thì được làng chia cho một phần thịt thật là cả một vinh dự : “Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp”.

2. Món ăn nhắc nhở đến tình yêu thương quê hương xứ sở

Như ta đã thấy, món ăn nói lên được những đặc sắc của mỗi địa phương, mang ít nhiều vết tích của tập quán, lễ nghi. Cao hơn nữa, các món ăn còn tiêu biểu phần nào cho tình yêu thương quê hương, nghĩa đoàn kết giữa đồng bào. Có phải lời lẽ tha thiết chứa đựng trong câu ca dao dưới đây là cả tiếng gọi thành khẩn và hiệu lực về mối đoàn kết giữa vùng rừng núi và miền biển cả, tượng trưng cho sự hòa hợp nhất trí của toàn thể đất nước :

Rủ nhau xuống biển mò cua
Đem về nấu quả mơ chua trên rừng
Em ơi chua ngọt đã từng
Non xanh nước biếc ta đừng quên nhau.

Ta đừng quên nhau cũng có nghĩa là ta phải yêu thương nhau, chung vai đấu cật, cùng đóng góp tài lực để xây dựng quê hương. Chẳng thế mà có người phải bùi ngùi tấc dạ khi tha phương cầu thực, gởi niềm nhớ đất nước vào nỗi thèm khát món ăn thô sơ của nơi chôn nhau cắt rốn :

Ra đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương.

Món canh rau muống, món cà dầm tương cũng như món cà non chấm mắm, cà già bỏ dưa dưới đây đã giữ trong lòng người dân niềm lưu luyến sắt đá đối với làng nước :

Bồng em đi dạo vườn cà
Cà non chấm mắm, cà già làm dưa
Làm dưa ba bữa dưa chua…

Có phải hình ảnh nhàn hạ ở đồng quê yên vui đã giữ chặt con người với nơi chôn nhau cắt rốn :

Ta về ta sắm cần câu
Câu lấy cá bống nấu canh tập tàng.

♦♦♦

PHẦN 03: MIẾNG ĂN THỂ HIỆN TÌNH CẢM CON NGƯỜI

Thu hẹp lại trong phạm vi cá nhân, mỗi món ăn tiêu biểu cho sở thích của con người thì thế nào cũng tố giác được tình cảm, tánh tình của người ấy. Ta thử tìm hiểu tình cảm con người phát lộ trong miếng ăn như thế nào.

1. Lòng hiếu thảo

Đầu tiên, ta đề cập đến lòng hiếu thảo. Người con phải tận tâm săn sóc cha mẹ già, cố gắng tìm món ngon vật lạ để dâng cho song thân :

Tôm càng lột vỏ, bỏ đuôi
Giã gạo cho trắng mà nuôi mẹ già.

Hay là :

Năm tiền một khúc cá buôi
Cũng mua cho được mà nuôi mẹ già.

Dù cho bà mẹ có nghiêm khắc đến đâu, phận con cũng phải cố phụng dưỡng cho chu đáo :

Má ơi, đừng đánh con đau
Để con bắt ốc, hái rau má nhờ!

Hay là :

Má ơi, đừng đánh con hoài
Để con bắt cá nấu xoài má ăn!

Gặp những năm đói kém thì lòng hiếu thảo càng được tỏ rõ. Người con chịu sống kham khổ, ăn quơ quào để đánh lừa cái đói, miễn là mẹ già được no ấm :

Đói lòng ăn đọt chà là
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng.

2. Tình yêu trai gái

Giữa trai và gái, món ăn là một mối dây nối kết. Để thể hiện một mối tình chớm nở, để nói lên được niềm nhớ nhung người yêu, không gì bằng câu ca dao sau đây :

Rượu nằm trong nhạo chờ nem
Anh nằm phòng vắng chờ em một mình.

Tình ái như một vị hương ngào ngạt làm đắm say lòng người, kẻ được yêu cảm thấy ngây ngất như được thưởng thức món ăn ngon vật lạ :

Cầm tay em như ăn bì nem, gỏi cuốn 
Dựa lưng nàng như uống chén rượu ngon.

Lòng nhớ thương của người con trai được thể hiện trong câu :

Bữa ăn có cá cùng canh
Anh chưa mát dạ bằng anh thấy nàng.

Ví von như thế thật là vừa thực tế và cũng vừa ngộ nghĩnh… Tuy nhiên, người con gái dùng hình ảnh cụ thể qua những lời thâm thúy và thanh nhã để nói lên được một cách kín đáo lòng trong trắng của mình :

Thân em như củ ấu gai
Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen
Ai ơi nếm thử mà xem
Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi

Hay là :

Thân em như miếng cau khô
Kẻ thanh tham mỏng, người thô tham dày.

Hay là :

Thân em khác thể trái chanh
Lắt lẻo trên cành, nhiều kẻ ước mơ.

Cách diễn tả những câu ca dao trên đây có cái táo bạo, cái sắc bén của những câu thơ Xuân Hương hay cái vẻ lả lơi, kỳ cổ của những câu thơ Ôn Như Hầu, nhưng vẫn không mất đi vẻ trang nhã, tế nhị.

3. Tình vợ chồng

Khi trai gái đã thành gia thất thì mối tình kia lắng xuống đậm đà hơn để đương đầu với bao thử thách đắng cay :

Tay bưng đĩa muối chấm gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau.

Cải bẹ xanh nấu với thịt sườn
Khổ qua kia hết đắng thì cái sự can thường hết thương.

Vì đã lấy nhau vì tình thì đâu có ngại cảnh sống nghèo khó, đâu có sờn lòng trước gian khổ :Lên non thiếp cũng lên theo Tay vịn chân trèo, hái trái nuôi nhau.

Đôi ta là nghĩa tào khang
Xuống khe bắt ốc, lên ngàn hái rau.

Yêu thương như thế thật là gắn bó keo sơn, thật là một bài học thiết thực cảnh tỉnh những người hèn hạ đã từng “Giàu đổi bạn, sang đổi vợ”. Và đây là một hình ảnh ấm cúng, cảnh vợ chồng hòa thuận, tâm đầu ý hợp trong bữa ăn đạm bạc :

Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon.

Tình thương chồng được phát lộ trong cách thức săn sóc chồng từng bữa ăn, lúc bình thường cũng như khi đau yếu :

Hồi nào mình bịnh, mình đau
Bắt từng con cá ruộng, nấu canh rau nuôi mình.

Hay là :

Thương chồng nấu cháo le le
Nấu canh bông bí, nấu chè hạt sen.

Tuy nhiên, đôi khi gặp cảnh tình lạt, nghĩa phai, người vợ hiền đau khổ và thở than :

Chàng ơi phụ thiếp làm chi
Thiếp như cơm nguội để khi đói lòng.

4. Tình bác ái trong miếng ăn

Khi quyền lợt cá nhân đã được thỏa đáng, khi bản thân đã ấm no thì thói thường con người hay nghĩ đến những người bất hạnh khác, những người sống đời đói rét, đương đau khổ hay đương kéo dài đời sống cô đơn :

Thóc bồ, thương kẻ ăn đong
Có chồng, thương kẻ nằm không một mình.

Tình bác ái được nêu rõ với một lập luận vừa cụ thể, vừa hợp lý. Hình ảnh người giàu thóc đối xứng với kẻ chạy ăn hằng bữa, hình ảnh đầm ấm của đời sống lứa đôi làm nổi bật cảnh lạnh lùng của kẻ cô đơn. Nhưng tình thương người không phải chỉ nằm trong vòng lý thuyết, nghĩa là chỉ là tình thương hại suông thôi. Lòng nhân từ phải cần được thi hành đúng đắn, nghĩa là phải thiết thực cứu giúp người, trong lúc người còn đương hoạn nạn, đau khổ :

Một miếng khi đói bằng một gói khi no.

Tương trợ như vậy mới tránh được tình cảm thiên vị, khỏi phải mang tiếng là vì quyền lợi cá nhân hay vì hiếu danh, hiếu thắng

 

♦♦♦

PHẦN 04: MIẾNG ĂN HAY LÀ TRIẾT LÝ CỦA CUỘC ĐỜI

1. Thói đời qua miếng ăn

Có người quần quật suốt ngày cũng vì miếng ăn. Có người ty tiện, bán cả danh cả tiếng, cầu cạnh cho được bả vinh hoa, mồi phú quý. Hạng người này có biết đâu “Miếng thịt là miếng nhục”. Suốt đời chạy theo miếng ăn, sống chết vì miếng ăn, coi miếng ăn là tuyệt đích:

Miếng ăn là miếng tồi tàn
Mất ăn một miếng lộn gan lên đầu.

Trái lại cũng có người trước danh lợi vẫn giữ được nếp sống trắng trong. Họ quan niệm đời một cách khác, vì họ cho đời lẫn lộn đắng cay, ngọt bùi. Sở dĩ người ta giành giật, xâu xé nhau vì đời là trường tranh đấu :

Sự đời nghĩ cũng nực cười
Một con cá lội, mấy người buông câu.

Trong thiên hạ, nhiều người tranh nhau từng miếng ăn, nói xấu, hãm hại nhau, tìm cách dìm người khác xuống :

Trâu cột thì ghét trâu ăn
Quan võ thì ghét quan văn quần dài.

Bậu chê qua ở rẫy ăn còng
Bậu về ở chợ, ăn ròng mắm nêm.

Hơn nữa, ngoài chợ đời thì thiếu chi người gian trá, bịp đời, sống trên lưng người, thuộc vào phường “treo đầu dê, bán thịt chó”. Họ còn lắm mồm lắm miệng, nói ngược nói xuôi, chê khen vô lối :

Cá không ăn câu chê rằng cá dại
Cá mắc câu rồi nói tại tham ăn.

Tuy nhiên, có khi tranh giành nhau đến trầy vi tróc vảy mà chung quy vẫn hoài công, vì kết quả thu được chẳng là bao :

Sá chi một nải chuối xanh
Năm bảy người giành cho mủ dính tay.

Thật là một chuỗi cười trào lộng pha vị chua chát, như chửi vào mặt bọn buôn danh bán tiếng, suốt đời chạy theo cái bóng hư danh? Ý tưởng này nhắc ta nhớ đến quan niệm về cuộc đời của nhà thơ Lý Bạch cho rằng, đời chỉ là một giấc mộng lớn, cần gì phải lao đao, lận đận (Xử thế nhược đại mông/ Hồ vi lao kỳ sinh?). Câu ca dao sau đây cũng giúp ta suy nghĩ nhiều về thái độ giả dối của những người chỉ tha thiết nghĩ đến quyền lợi của bản thân mình thôi :

Cơm ăn không hết thì treo
Việc làm không hết thì kêu xóm làng.

Cuối cùng, qua miếng ăn, ta thấy ca dao tục ngữ cũng bày ra hạng người vong bổn, chỉ biết mới chuộng cũ vong, chẳng khác chi :

Có chả, em tình phụ xôi
Có cam phụ quýt, có người phụ ta.

Ăn cháo đá bát.

2. Thái độ đối phó

Cuộc đời quả thật phiền toái và đắng cay. Cho nên, dựa trên kinh nghiệm, chúng ta phải có thái độ đối phó như thế nào, phải khôn ngoan xử thế làm sao cho hợp lý. Ca dao tục ngữ dạy ta sống là phải đấu tranh, phải chịu đựng gian khổ mới có thể mưu sinh dễ dàng.

Có khó mới có miếng ăn
Ngồi không ai dễ mang phần tới cho.

Muốn ăn phải lăn vào bếp.

Làm sao mà ăn không, ở vì được trong khi mọi người đếu lấy “bát mồ hôi đổi bát cơm”? Thành thử, khi ra đời, phải tập luyện cho cơ thể quen thuộc với nắng mưa, chịu đựng gian khổ :

Đã từng ăn bát cơm đầy
Đã từng nhịn đói cả ngày chẳng ăn.

Nếu có gặp được cảnh sống thư thả, sung túc thì phải nghĩ đến những lúc thiếu thốn và một ngày mai có thể bị sa cơ thất thế :

Được mùa chớ phụ ngô khoai
Đến năm có hạn lấy ai bạn cùng?

Thái độ có hậu, chung thủy như trên rất hợp với tinh thần nhân nghĩa của người Á Đông. Còn muốn đảm bảo thành công ở đời thì ta phải khôn ngoan xử sự, có óc thiết thực, không bao giờ chuộng những cái gì hão huyền :

Sống thời con chẳng cho ăn
Chết thì xôi thịt làm văn tế ruồi.

Cái lối sống thiết thực ấy phải là lối sống có điều độ, hợp với lẽ phải :

Anh ơi, uống rượu thì say
Bỏ ruộng ai cày, bỏ giống ai gieo.

Ăn lắm thời hết miếng ngon
Nói lắm thời hết lời khôn, hóa rồ.

Rượu lạt uống lắm cũng say
Người khôn nói lắm dẫu hay cũng nhàm.

Tuy rằng phải tùy cơ ứng biến, phải “Ăn theo thuở, ở theo thì”, nhưng con người trung nghĩa thì bao giờ cũng phải chuộng sự thật, tránh thái độ gian tham, giả dối :

Ăn mặn nói ngay hơn ăn chay nói dối.

Những câu phương ngôn trên diễn tả những món ăn, vật uống đã là những lý luận mẫu mực, xác đáng dạy ta phép xử thế thực tiễn.

3. Bổn phận trong miếng ăn

Tuy là phải “vắt đầu cá, vá đầu tôm”, một nắng hai sương để chạy từng bữa ăn, nhưng con người còn có cái gì quý hóa, thiêng liêng hơn, đó là bổn phận :

Anh đi, em ở lại nhà
Hai vai gánh vác mẹ già con thơ
Lầm than bao quản muối dưa
Anh đi, anh liệu chen đua với đời.

Người con trai ra đi, vẫy vùng bốn phương cho phỉ chí nam nhi, cũng yên tâm vì có được người vợ hiền ở nhà chăm sóc gia thất, phụng dưỡng cha mẹ già, nuôi dạy con thơ. Món ăn thanh đạm muối dưa nói lên được cái tình nghĩa sắt son của người đàn bà. Hơn nữa, người con gái còn mang nặng bổn phận hiếu thảo đối với cha mẹ, kính nhường anh em, giữ hòa khí trong gia đình :

Nhà em có vại cà đồng
Có ao rau muống, có đầy chĩnh tương
Dẫu không mỹ vị cao lương
Trên thờ cha mẹ, dưới nhường anh em
Một nhà vui vẻ êm đềm
Đói no trong cảnh không thèm lụy ai.

Đối với người thân ta phải có bổn phận đã đành rồi, còn đối với vô số người vô danh trong xã hội đã góp phần vào đời sống công cộng, thì hết lòng tri ân :

Ăn trái nhớ kẻ trồng cây
Ăn gạo nhớ kẻ đâm xay tối ngày.

Thái độ biết ơn trên cũng là thái độ cố hữu của người Việt, là bổn phận của người dân được hưởng thụ, vẫn ghi nhớ công đức đối với các bậc tiền bối đã khai sáng đất nước.

4. Khí tiết của miếng ăn

Như vậy, con người lấy nhân nghĩa mà xử sự ở đời, sống phải có trước có sau mặc dầu gặp cảnh nghèo khó, gian khổ phải luôn luôn thủy chung như nhất :

Tay cầm đĩa muối sàng rau
Thủy chung như nhất, sang giàu mặc ai.

Cao hơn nữa, cái khí tiết trung nghĩa được phát lộ trong mấy câu ca dao thời thế sau đây. Trước cám dỗ vật chất, trước những miếng ăn thịnh soạn của tân trào mang lại, con người trung nghĩa quyết cam phận thanh bần :

Văn minh gặp buổi Lang Sa
Tri âm thì ít, trăng hoa thì nhiều
Khuyên ai giữ chí về sau
Đừng còn tập tễnh Tây, Tàu mà no
Thà rằng chịu đói no rau cháo
Lấy chồng nghèo giã gạo nấu cơm
Chẳng hơn thịt cá đầy mâm
Mà đem thân thế ra thân thế này…

Những người tiết nghĩa như vậy bao giờ cũng chọn cái gì trong trắng, cao quý và ghét đời ô trọc gian tham :

Khế rụng bờ ao thanh tao anh lượm
Ngọt như cam sành héo cuống anh chê.

Ai lại không thích ăn sung mặc sướng, sống đời vương giả, đầy đủ và tiện nghi? Tuy nhiên, nếu sống được như vậy mà phải nô lệ tân trào thì trở về với đời sống đạm bạc còn hơn :

Canh cải mà nấu với gừng
Chẳng ăn thì chớ, xin đừng chê bai.

Cũng như người con gái, chống lại chế độ đa thê, thà chịu cảnh nghèo nàn chứ nhất định không chịu lấy chồng chung :

Đói thì ăn nắm lá sung
Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng.

 

♦♦♦

PHẦN KẾT: GIÁ TRỊ TINH THẦN

Để kết luận, ta thấy miếng ăn diễn tả trong câu ca dao tục ngữ thật là quan trọng, có thể chế ngự được tình cảm và lý trí, chi phối cả đời sống con người, có thể hạ phẩm giá con người cũng như gây xô xát ngoài xã hội. Tuy nhiên, miếng ăn không có giá trị tuyệt đối, chưa phải là cứu cánh cao quý nhất của con người, vì ở đời còn có điều nhân nghĩa, còn có niềm thủy chung là giá trị tinh thần cố hữa quý hóa của người dân Việt :

Được mùa chớ phụ ngô khoai
Đến năm có hạn, biết ai bạn cùng.

Con người phải có hậu, không bắt chước những kẻ “có mới thì nới cũ”, biết trọng nghĩa khinh tài và nhất định không bao giờ :

Xưa nay ăn đâu ở đâu Bây giờ có bí, chê bầu rằng hôi.

Lưu Văn – Tạp chí Tiến thủ  Ảnh: TL-KV sưu tầm

Bình luận từ người dùng

1
2
3
4
5
6
7
8
TRE - BAMBOO
1491
Tre xoắn ốc và xoắn (spirals and twists) trong các hình thức kiên strúc hấp dẫn! Công viên Đô thị Cải tạo Vi mô (Urban Park Micro Renovation) của Trường kiến trúc Atelier cnS, Đại học Công nghệ South China trình bày một số công trình kiến trúc lượn sóng thú vị làm từ tre. Từ khóa: parametric architecture, kiến trúc tham số,
Giới thiệu
Liên hệ
Nhật ký độc giả
VI | EN
Link đã được copy