Cố Cung Bắc Kinh – kinh thành gỗ lớn nhất hành tinh

01/10/2016 Kiến Admin
4854
0

Toàn cảnh Cố Cung nhìn từ góc Đông NamTại trung tâm Bắc Kinh, có một quần thể kiến trúc mái vàng rực rỡ, trang nghiêm huyền bí - đó là Tử Cấm Thành, tức Cố Cung. Cố Cung Bắc Kinh là viên ngọc sáng ngời trong các kiến trúc cung đình của Trung Quốc, cụm kiến trúc kết cấu bằng gỗ có quy mô lớn nhất và nguyên vẹn nhất trên thế giới hiện nay.

Quy mô - Bố cục

Trong hơn 500 năm lịch sử, cho đến khi triều đình nhà Thanh bị lật đổ, tổng cộng có 24 đời vua từng sống và xử lý quốc sự tại đây. Quy mô to lớn, phong cách đẹp mắt, kiến trúc hoành tráng, bày biện sang trọng của Cố Cung đều thuộc loại hiếm có trên thế giới. Diện tích Cố Cung khoảng 720.000 m2, chiều dài nam - bắc gần 1.000 m, chiều đông - tây khoảng 800 m, xung quanh có tường thành cao hơn 10 mét bao bọc, bên ngoài bức tường có sông Hộ Thành rộng hơn 50 mét. Bốn góc thành có 4 tháp canh, 4 mặt thành có 4 cửa ra vào đối diện nhau: Ngọ Môn (Ngũ Phượng lầu), Thần Vũ Môn, Đông Hoa Môn, Tây Hoa Môn. Toàn thành có 9 cổng, và có 3 lớp vòng thành (tam trùng thành quách). Tổng cộng có 800 cung và 8,886 phòng.

So với Nam Kinh và các kinh thành Trung Quốc trước đó, Tử Cấm Thành có hai điểm mới: - Thứ nhất, Tử Cấm Thành có hình chữ nhật trong khi các kinh thành trước đó thiết kế theo nguyên tắc "tiền triều, hậu thị" (cung điện triều đình phía trước, chợ búa phía sau), đều có hình vuông. - Thứ hai, Tử Cấm Thành có 3 lớp vòng thành trong khi các kinh thành Trung Quốc từ thời Ân Thương đến Kim Lăng (Nam Kinh đầu triều Minh) đều được xây bọc quanh bằng 1 hoặc 2 lớp vòng thành. Hai sự thay đổi này được đánh giá là do người vẽ kiểu (Nguyễn An) chịu ảnh hưởng của kiến trúc Việt Nam (từ thành Cổ Loa đã có 3 vòng thành) [Lê Thanh Hoa].

Cố Cung được xây dựng theo trật tự lễ giáo, quy phạm chính trị và tinh thần luân lý của các vương triều phong kiến Trung Quốc. Bố cục chỉnh thể cũng như quy mô, hình dáng, màu sắc trang trí và trưng bày của Cố Cung đều thể hiện quyền vua tối cao và đẳng cấp nghiêm ngặt.

Tác giả thiết kế và Quá trình xây dựng

Năm 1403, Chu Đệ - vua Minh Thành Tổ (niên hiệu Vĩnh Lạc) - đời vua thứ hai nhà Minh, dời đô từ Kim Lăng (sau đổi thành Nam Kinh) về Bắc Bình (là kinh đô cũ của nhà Nguyên, sau đổi thành Bắc Kinh).

Năm 1404, Chu Đệ ra lệnh xây dựng Cố Cung. Nguyễn An – một KTS tài ba người Việt Nam - đã được chỉ định thiết kế, chỉ huy và xây dựng công trình vĩ đại này trong vòng 16 năm (hoàn thành năm 1420). Trong đó có 13 năm chuẩn bị, tính toán thông số để thiết kế công trình, tập kết nguyên vật liệu và nhân công… quá trình xây dựng và lắp ráp hoàn thiện chỉ có 3 năm! Theo sách sử ghi chép lại, trong thời gian xây dựng Cố Cung, triều Minh từng huy động hàng trăm nghìn thợ các loại và hàng triệu phu xây dựng, nguyên vật liệu chở từ khắp các nơi trong cả nước đến, kể cả từ tỉnh Vân Nam cách Bắc Kinh hằng mấy nghìn km. Sông Kim Thủy và Thái Hòa môn

Năm 1421 (một năm sau khi hoàn thành xây dựng), Cố Cung có hỏa hoạn lớn, ba điện lớn là Phụng Thiên, Hoa CáiCẩn Thân (đến đời Thanh đổi tên là Thái Hòa, Trung Hòa, Bảo Hòa) và hai cung Càn Thanh, Khôn Ninh bị cháy rụi. Năm 1437 vua Minh giao cho bộ công xây dựng lại. Viên công bộ thị lang là Thái Tín xin 18 vạn dân phu biết nghề "và tốn phí về vật liệu không biết bao nhiêu mà kể".

Năm 1440 vua Minh Anh Tông (niên hiệu Chính Thống) giao cho Nguyễn An 7 vạn thợ để trùng tu ba điện và hai cung này. Sách Chính Thống thực lục ghi: "Ngày 10 tháng 2 năm Chính Thống thứ sáu (năm 1441) hai cung ba điện xây dựng hoàn thành". Như vậy, Nguyễn An đã trùng tu hai cung ba điện chỉ trong vòng hơn một năm. Vua ban thưởng cho ông 50 lạng vàng, 100 lạng bạc, 8 tấm lụa và 1 vạn quan tiền. Về sau, thợ kiến trúc các đời vua kế vị đã phải vắt óc suy nghĩ phương pháp phòng chống hỏa hoạn. Trong Cố Cung có những dãy nhà, bên ngoài trông như nhà gỗ, nhưng toàn bộ bên trong đều do những phiến đá tạo thành, đây là tường phòng hỏa do các kiến trúc sư dày công thiết kế. Trong các khuôn viên của Cố Cung, tổng cộng đặt 308 chiếc vạc lớn, bên trong vạc quanh năm đều chứa đầy nước dùng để phòng hỏa. Đến mùa đông, họ cho người đốt lửa ở dưới đáy vạc để giữ cho nước ấm không bị đóng băng.

Tháng tư năm 1442, vua Anh Tông giao cho đội quân xây dựng của Nguyễn An gồm 7 vạn quan binh, thợ thủ công tiếp tục xây: + Bộ Lại, Bộ Lễ, Bộ Hộ, Bộ Binh, Bộ Hình, Bộ Công. + Phủ Tôn Nhân, Hồng Lô Tự, Khâm Thiên Giám, Viện Thái Y, Viện Hàn Lâm và Quốc Học (Quốc Tử Giám, tức Thư viện Thủ đô Bắc Kinh ngày nay). Sông Hộ Thành bao quanh Cố CungNhư vậy, các công trình ở Bắc Kinh do Nguyễn An chỉ huy xây dựng bao gồm: thành trì Tử Cấm Thành và chín cửa thành lầu; hai cung, ba điện; năm phủ, và sáu bộ. Các vua nhà Minh đều xem Nguyễn An như một "kỳ nhân", thưởng cho nhiều vàng bạc và vóc nhiễu quý. Tại Mỹ, trong tập 7 của bộ sách lịch sử Trung Quốc của Đại học Cambridge (The Cambridge History of China), viết về triều đại nhà Minh (The Ming Dynasty (1368-1644), Part I) đã kể rõ vai trò của kiến trúc sư trưởng Nguyễn An (Juan An) trong việc xây dựng cung điện nhà Minh ở Bắc Kinh như sau:

"... Công trình xây dựng kinh thành Bắc Kinh đòi hỏi động viên một lực lượng đông đảo thợ giỏi về thủ công và lao động, thường được lấy từ những đơn vị quân binh hoặc những tội phạm bất trị bị kết án khổ sai, cũng như việc trưng dụng vật liệu xây cất từ khắp nơi trong nước, kể cả những nơi xa xôi như An Nam vừa mới được sát nhập. Số lượng nhân công không biết đích xác, nhưng ước lượng phải lên tới hàng trăm nghìn người. Kiến trúc sư trưởng là một thái giám người An Nam tên là Nguyễn An (mất năm 1453), ông này cũng còn đóng vai trò quan trọng trong công trình tái thiết Bắc Kinh sau đó dưới thời vua Anh Tông."

Kiến trúc và văn vật trong Cố Cung Các kiến trúc trong Cố Cung chiếu theo tính chất sử dụng được phân thành 2 khu vực: ngoại triềunội đình.

Ngoại triều: là nơi các nhà vua thi hành quyền lực thống trị và tổ chức các nghi lễ long trọng, chủ yếu bao gồm quần thể kiến trúc lớn: điện Thái Hoà, Trung Hoà, Bảo Hoà (gọi là Tiền Tam điện) trên trục chính và 4 nhóm kiến trúc giáp ngoài đối xứng với nhau.

Điện Thái Hoà là tòa điện lớn nhất và tráng lệ nhất trong Cố Cung. Trên quảng trường hướng nam rộng hơn 30.000 m2, điện Thái Hoà được xây trên một mặt nền (với các bậc thang bằng đá trắng) cao 8m, chiều dài của điện 63,96m rộng 37,17m, chiều cao của điện gần 40m, là kiến trúc cao nhất trong Cố Cung. Nền móng bằng đá trắng của điện Thái Hoà càng khiến ngôi điện này trở nên đồ sộ và hoành tráng. Trong nền văn hóa Trung Quốc, rồng tiêu biểu cho quyền vua, nhà vua được coi là “chân long thiên tử”, các vật trang trí trong điện Thái Hoà đều sử dụng nhiều hình tượng của rồng, phía trên bên dưới có tới gần 13 nghìn hình tượng con rồng.

Điện Thái Hoà là công trình quan trọng bậc nhất nên toàn bộ mái đều lợp bằng ngói lưu ly màu vàng. Khi mặt trời rọi xuống, từ mái điện phản chiếu lên ánh hào quang sáng chói. Toàn bộ tường và cửa sổ màu đỏ dưới nền màu trắng trông thật rực rỡ. Trên nóc điện, ở 2 phía có đắp 2 đầu rồng cao 3m và dọc theo nóc điện có đắp 1 loạt những con vật nhỏ dáng vẻ như đang di động. Các cửa ra vào và cửa sổ đều có những mảng hoa văn.

Trong điện Thái Hoà có 6 cây cột giữa sơn son thếp vàng với hình những con rồng vàng lượn khúc. Ở trần nhà, trên đầu 6 cây cột được thiết kế tạo dáng như hình 1 cái giếng hình vuông rồi dần dần thu nhỏ lại, từ hình vuông chuyển thành hình bát giác và trên cùng vẽ hình 1 con rồng lượn khúc mặt nhìn xuống dưới, phía trước là 1 khối thủy tinh hình tròn.

Bệ rồng của nhà vua là 1 ngai vàng đặt trên bục gỗ dưới cây cột vàng. Đằng sau ngai vàng là chiếc bình phong 7 cánh, phía trước bình phong có bày nhang án, lư hương, chim công… Nếu cho điện Thái Hoà là trung tâm của Tử Cấm Thành, thì bệ rồng phải là trung tâm của trung tâm.

Điện Trung Hoà và điện Bảo Hoà

Điện Trung Hoà là nơi để vua chuẩn bị trước khi tới điện Thái Hoà ngự triều, diện tích hơi nhỏ, bài trí cũng đơn giản. Điện Bảo Hoà là nơi cử hành ngự thi, tức là các khoá sinh thi đậu Tiến sĩ ở các nơi được gọi đến Điện Bảo Hoà để vua đích thân khảo tra lại lần cuối cùng, nên nơi đây có diện tích rộng, được xây dựng và trang hoàng lộng lẫy.

Điện Bảo Hoà có 9 gian, còn điện Trung Hoà hình vuông, rộng 5 gian. Cả 3 ngôi điện: Thái Hoà, Trung Hoà và Bảo Hoà đều lợp bằng ngói lưu ly màu vàng, cửa sổ màu đỏ cùng trên nền màu trắng nhưng về khối hình thì 2 lớn 1 nhỏ, mái của 3 ngôi điện khác nhau họp thành 1 quần thể kiến trúc hài hoà, phong phú, đa dạng.

Cung Càn Thanh

Đây là cung lớn ở phía sau Tử Cấm Thành, nơi ở của Nhà vua và Hoàng Hậu. Ở đây còn là nơi vua tiếp kiến các đại thần và giải quyết công việc hàng ngày. Sau khi lên ngôi, vua Ung Chính (nhà Thanh) dời nơi ở đến điện Dưỡng Tâm nằm ở phía Tây, nên cung Càn Thanh được nhà vua dùng làm nơi giải quyết công việc triều chính, tiếp kiến đại thần, hội kiến với sứ thần ngoại quốc nên trang trí cũng đơn giản.

Phía trên nơi vua ngồi có treo bức đại tự với 4 chữ “Chính Đại Quang Minh”. Các hoàng đế Trung Quốc lên cầm quyền bằng chế độ truyền ngôi cho nhau, nên lúc vua còn sống phải công bố rõ ràng ai sẽ là người kế vị tiếp nối sau khi vua băng hà. Vì vậy, sự tranh chấp ngôi vua thường diễn ra rất quyết liệt, khi thầm lén, lúc công khai trong hoàng tộc và quần thần.

Hoàng đế Khang Hy nhà Thanh có 35 con trai. Sau 1 thời gian dài tranh chấp, cuối cùng người con trai thứ 4 của ông được kế vị. Sau khi Ung Chính lên ngôi vua, ông rút kinh nghiệm nên đã đưa ra quyết định là lúc vua còn sống không công bố tên tuổi người kế vị, mà chỉ viết tên tuổi người đó vào 2 mảnh chiếu chỉ: 1 mảnh Nhà vua giữ bên mình, còn mảnh kia được để ở cung Càn Thanh, phía sau bức đại tự Chính Đại Quang Minh, chờ khi vua băng hà mới đem 2 mảnh có tên người đó gộp lại và công bố cho mọi người biết.

Điện Giao Thái, cung Khôn Ninh

Cung Khôn Ninh đời Minh và đầu đời Thanh là nơi ở của Hoàng hậu. Sau này bên trong chia làm 2 phần: phía Đông, Hoàng đế dùng làm nơi động phòng sau buổi kết hôn, phía Tây làm nơi cúng lễ. Ở vào khoảng giữa 2 cung Càn Thanh và Khôn Ninh có điện Giao Thái hình vuông, quy mô không lớn, là nơi để Hoàng hậu tiếp đón Hoàng thân Quốc thích đến chào mừng nhân ngày Lễ, Tết.

Nó được trang trí có hoa văn rồng và hoa văn phượng xen lẫn nhau. Rồng tượng trưng nhà vua, còn Phượng tượng trưng hoàng hậu. Lối kiến trúc của 3 ngôi điện lớn ở tiền triều phía trước, nhưng về quy mô to nhỏ, cao thấp, rộng hẹp thì kém nhiều.

Ngự hoa viên (vườn Thượng Uyển)

Phần phía sau cùng ở Tử Cấm Thành là Ngự hoa viên mà trong các sách Việt Nam thường gọi là Vườn Thượng Uyển. Đó là vườn hoa trong cung đình. Ngự hoa viên có diện tích rộng chừng 11.000m2, có đình, đài, lầu, các.

Về thực vật, ngoài các cây vốn sinh trưởng ở miền Bắc Trung Quốc, ở đây còn tuỳ theo thời tiết từng mùa trồng xen vào những bồn hoa, cây cảnh phương Nam và từ khắp nơi trong nước gửi về tiến vua những mẫu hình đá quý, những hòn non bộ được trưng bày trong vườn làm cho Ngự hoa viên có 1 cảnh sắc hoà đồng với thiên nhiên, hoàn toàn khác biệt với cảnh nguy nga tráng lệ của quần thể các cung điện phía trước. .

Điện Dưỡng Tâm

Điện Dưỡng Tâm không nằm ở trục chính giữa của Tử Cấm Thành mà là ở phía Tây, phần Hậu tẩm. Điện vốn là nơi ở của Hoàng Thái hậu, đến đời vua Ung Chính nhà Thanh thì dùng làm nơi ăn nghỉ của nhà vua, còn là nơi tiếp kiến các đại thần, giải quyết công việc thường nhật, nên ở giữa điện không có ngai vàng.

Đông Noãn Các trong điện cũng là nơi nhà vua và đại thần nghị sự. Thời vua Đồng Trị nhà Thanh, do bà mẹ là Từ Hy Thái hậu chuyên quyền, nên mỗi lần Nhà vua nghị bàn giải quyết công việc quốc gia thì Hoàng đế ngồi trên ngự kỷ ở Đông Noãn Các, phía sau ghế vua ngồi có 1 tấm màn rủ là 2 bà Đông, Tây Thái hậu ngồi nhiếp chính (huấn dụ).

Cửa Ngọ Môn là cửa chính để vào Cố Cung nằm ở phía Nam trên trục chính. Ngọ Môn được xây dựng theo kiểu hình chữ U, phía dưới là khối tường thành dày và cao, có trổ 5 cửa vòm. Bên trên xây 1 toà điện lớn 9 gian ngay mặt chính, 4 góc hình chữ U xây 4 điện vuông. Năm toà điện này đều 2 tầng, mái được nối với nhau bằng hành lang cửa sổ có mái che. Ngọ Môn còn có tên là Ngũ Phượng Lầu.

Khi vào cửa Ngọ Môn, trước mặt là 1 quảng trường có con sông Kim Thuỷ chảy ngang qua hình dây cung. Chính giữa có 5 chiếc cầu bằng đá trắng lớn, hai bên cầu và hai bên sông đều có lan can bằng đá trắng. Đối diện với Ngọ Môn là Thái Hoà Môn cũng thuộc quần thể kiến trúc Tiền Tam điện.

Quần thể này được xây dựng trên đài cao 6m, gần giống như hình chữ Thổ. Đài chia làm 3 tầng, mỗi tầng đều có lan can bằng đá trắng bao quanh, 4 mặt đều xây bậc lên xuống, chính giữa mỗi bậc đều có 1 tảng đá lớn hình chữ nhật, bên trên khắc hình rồng mây rất tinh tế.

Cửa Thái Hoà - Đây là cửa lớn của 3 điện lớn ở Tử Cấm Thành, đằng trước có 7 gian dựng trên 1 nền đá cao. Ở 2 bên phía trước có con sư tử đồng ngồi ở bệ đá. Sư tử vốn ở Châu Phi, đến đời nhà Hán, quốc vương Sri Lanca dùng sư tử làm vật tiến cống Hoàng đế nhà Hán. Từ đó, sư tử du nhập vào Trung Quốc. Sư tử là loài vật có sức mạnh, lại rất hung dữ, khiến nhiều loài thú rừng khác phải khiếp sợ, vẫn được mệnh danh là Chúa Sơn lâm. Cách bố trí để 2 con sư tử trước cửa nhằm làm tôn thêm vẻ uy nghiêm của kiến trúc và sức mạnh của Thiên triều.

Trước Thiên An Môn và trước cửa các kiến trúc quan trọng khác của Tử Cấm Thành đều có đặt sư tử đá và cách bài trí theo 1 kiểu cách nhất định: bên trái cửa có con sư tử đực đạp chân lên quả cầu, phía phải là sư tử mẹ đang vui đùa với sư tử con. Vua Thuận Trị nhà Thanh lần đầu tiên vào quan nội, khi tiến vào Tử Cấm Thành đã cho cử hành nghi lễ ban chiếu chỉ đầu tiên của nhà vua tại cửa Thái Hoà.

... Kiến trúc của Cố Cung còn nhiều thứ để nghiên cứu. Các cung điện trong Cố Cung đồ sộ, lầu các trùng điệp, tương truyền có tổng cộng 9.999 gian. Người thời xưa cho rằng, nhà ở của Thiên Đế, tức vua trời trên thiên cung, có 10 nghìn gian, nhà vua là con của Thiên Đế, phải hạn chế bản thân, không được vượt quá Thiên Đế, cho nên số lượng các gian nhà trong Cố Cung ít hơn Thiên cung một gian. Cụm kiến trúc Cố Cung đồ sộ, đã tập kết toàn bộ trí tuệ của người thiết kế và sức lao động vượt bậc của người dân. Lớn là kết cấu của cả cụm kiến trúc, nhỏ là những chi tiết trang trí các loại trên mái nhà, cửa ra vào, tường vách… tất cả đều do trí tưởng tượng phong phú, kỳ diệu, phi thường của con người tạo ra. Vì là Hoàng cung nên Cố Cung còn lưu trữ rất nhiều văn vật quý hiếm. Theo thống kê, có tới hơn hàng triệu văn vật còn lưu giữ, chiếm một phần sáu tổng số văn vật của cả Trung Quốc, trong đó có rất nhiều quốc báu có một không hai. Những năm 80 của thế kỷ trước, chính phủ Trung Quốc đã cho xây hơn 100 gian nhà kho ngầm, phần lớn văn vật được cất giữ ở bên dưới “địa cung” này. Cụm kiến trúc Cố Cung đồ sộ hoành tráng đã trở thành biểu tượng của nền văn hóa Trung Quốc. Các nhà thiết kế trong và ngoài nước đều công nhận rằng, ̣kiến trúc của Cố Cung Bắc Kinh là một kiệt tác không gì sánh nổi, nó là tiêu chí của truyền thống văn hóa lâu đời Trung Quốc, thể hiện thành tựu xuất sắc về kiến trúc của người thiết kế và bàn tay xây dựng tuyệt mỹ của con người cách đây hơn 500 năm. Những năm gần đây, các du khách đến thăm quan Cố Cung ngày một đông, lưu lượng du khách hằng năm gần 10 triệu lượt người.

Thiên Đàn (Đàn tế trời)

Cố Cung Bắc Kinh đã được UNESCO xếp vào loại quần thể kiến trúc cổ bằng gỗ lớn nhất thế giới và công nhận là Di sản văn hoá thế giới tại Trung Quốc vào năm 1987 với tên gọi là Cung điện triều Minh và triều Thanh tại Bắc Kinh và Thẩm Dương (tiếng Anh: Imperial Palace of the Ming and Qing Dynasties in Beijing and Shenyang. Để giữ gìn Cố Cung được tốt hơn, từ năm 2003, chính phủ Trung Quốc bắt đầu cho trùng tu từng phần cho đến toàn diện Cố Cung. Công trình trùng tu này sẽ được tiến hành liên tục trong 20 năm.

Mời các bạn xem bộ ảnh "Cố Cung Bắc Kinh" dưới đây:

Xem Album Gallery...

KTS. LMH tổng hợp

Bình luận từ người dùng

1
2
3
4
5
6
7
8
TRE - BAMBOO
1274
Tre xoắn ốc và xoắn (spirals and twists) trong các hình thức kiên strúc hấp dẫn! Công viên Đô thị Cải tạo Vi mô (Urban Park Micro Renovation) của Trường kiến trúc Atelier cnS, Đại học Công nghệ South China trình bày một số công trình kiến trúc lượn sóng thú vị làm từ tre. Từ khóa: parametric architecture, kiến trúc tham số,
Giới thiệu
Liên hệ
Nhật ký độc giả
VI | EN
Link đã được copy