Để Cù Lao Phố phát triển mang đậm dấu ấn ''Mở Đất Phương Nam"

A. Ý NGHĨA LỊCH SỬ

Cù Lao Phố, nay thuộc Xã Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai là vùng đất có một vai trò đặc biệt trong tiến trình mở cõi phương Nam của dân tộc ta nói chung và Biên Hòa – Đồng Nai nói riêng. Nơi đây từng là nơi tụ cư của nhiều cộng đồng tộc người, đặc biệt là cộng đồng người Minh Hương trước đây, lực lượng có nhiều đóng góp cho quá trình xây dựng và phát triển Cù Lao Phố thành một thương cảng nổi tiếng của vùng đất Biên Hùng. Đây cũng là nơi lưu lại rất nhiều cơ sở di tích văn hóa tín ngưỡng – tôn giáo, những yếu tố tác động sâu sắc đến đời sống văn hóa tinh thần của người dân nơi đây cả trong quá khứ và hiện tại.

Hiện tại, Cù Lao Phố vẫn còn lưu giữ 11 ngôi đình, 6 ngôi chùa, 3 ngôi tịnh xá, 1 Thất Phủ Cổ Miếu, 1 Thánh thất Cao Đài và rất nhiều công trình di tích nhà cổ và lăng mộ mang giá trị lâu đời. Trong bối cảnh hiện nay, với nhu cầu đô thị hóa và công nghiệp hóa của Biên Hòa – Đồng Nai, một trong những vùng kinh tế trọng điểm khu vực phía Nam, Cù Lao Phố đang chuyển mình với những thay đổi mạnh mẽ trên nhiều phương diện kinh tế – văn hóa – xã hội. Sự biến đổi về bối cảnh văn hóa cũng đã ít nhiều tác động đến đời sống văn hóa tinh thần của cư dân nơi đây, nhất là đối với giá trị văn hóa được kết tinh trong truyền thống. Đây là vùng đất mà giữa quá khứ và hiện tại, giữa truyền thống và hiện đại dường như có một sự liên kết rất đặc biệt, sự liên kết đó được thể hiện trong mối quan hệ tương tác giữa đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng cư dân với các cơ sở di tích tín ngưỡng – tôn giáo được kế thừa từ trong quá khứ. Sự liên kết đó có được nhìn nhận mức độ nông hay sâu, bền bỉ hay chóng vánh, có góp phần bảo lưu những giá trị tinh hoa, hay định hình nên những giá trị văn hóa mới phục vụ cho nhu cầu phát triển của vùng đất này trong hiện tại và tương lai, là một nội dung quan trọng vô cùng cần thiết đặt ra nơi đây.

a. Hình thể, vị trí đặc thù:

Cù Lao Phố rộng khoảng 600 ha (6,6 km2), có hình dạng chiếc chuông chùa treo nghiêng, đỉnh chuông ở xóm Bình Tự nằm về phía Đông Bắc.

(Ảnh bên: Hình thể Cù Lao Phố nhìn trên Google)

Hướng Tây Nam lên Đông Bắc là dòng chảy của sông Cái, còn gọi là Rạch Cát (tên chữ: Sa Hà) uốn vòng tạo thành hình thân chuông. Dòng chính Đồng Nai chảy thẳng hướng Tây Bắc – Đông Nam tạo thành hình đáy chuông. Tuyến đường sắt xuyên Việt và Quốc lộ 1 băng qua mỏm phía Tây Cù Lao (khóm Thành Hưng) bởi hai chiếc cầu rạch Cát và cầu Ghềnh (Gành) được xây vào năm 1903, nối đôi bờ sông Đồng Nai. Hiện nay việc xây dựng thêm các cầu Hiệp Hòa, Bửu Hòa và An Hảo cùng các tuyến đường giao thông huyết mạch này giúp kết nối Cù Lao Phố với Thành Phố Hồ Chí Minh cùng các tỉnh miền Tây và các tỉnh thành trong cả nước.

Hình ảnh Cù Lao Phố với chung quanh là sông nước nhìn từ không ảnh

Hệ thống giao thông đường thủy nối kết trên sông Đồng Nai cũng là ưu thế đặc thù của vùng đất với các tuyến sông rạch TP HCM và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.

b. Hình thành:

Sau cuộc hôn nhân lịch sử giữa công chúa Ngọc Vạn với vua Chân Lạp Chay Chetta II năm 1620, người Việt bắt đầu di dân vào vùng đất phương Nam, tiến hành công cuộc khai hoang mở cõi.

Đến tháng 6 năm 1679, nhóm di thần nhà Minh do Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch cầm đầu dẫn theo khoảng 300 người đi trên năm mươi thuyền từ Quảng Đông vào Đàng Trong xin tị nạn. Chúa Hiền, tức Nguyễn Phúc Tần, cử người dẫn đường đưa họ vào làm ăn sinh sống ở Bàn Lân và Mỹ Tho. Số người Minh tới đất Đồng Nai lập xã Thanh Hà (kéo dài từ Bàn Lân đến Bến Gỗ), cùng với người Việt đến trước xây dựng cảng Nông Nại Đại Phố, thu hút thương buôn trong và ngoài nước đến trao đổi buôn bán sầm uất suốt gần một thế kỷ.

Năm 1698, Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh được chúa Nguyễn Phúc Chu cử vào kinh lược, mở mang đất phương Nam. Tổng hành dinh của ông đặt tại đất Cù Lao Phố, lập phủ Gia Định gồm hai huyện: Phước Long (đặt dinh Trấn Biên); Tân Bình (đặt dinh Phiên Trấn). Đến năm 1776, Nguyễn Huệ đưa quân vào đánh chúa Nguyễn ở Gia Định, phố lớn Nông Nại bị tàn phá bởi khói lửa chiến tranh. Người Hoa kéo về vùng Chợ Lớn (Sài Gòn) làm ăn, lập nên thương cảng Sài Gòn thay thế cho cảng Nông Nại đã bị lụi tàn. Cù Lao Phố trở thành một làng quê yên ả, không còn cảnh trên bến dưới thuyền, phố sá nhộn nhịp nữa. Năm 1836, địa bạ Nam Kỳ được lập, lúc này Cù Lao Phố có tất cả 12 thôn xã. Theo quy định của nhà Nguyễn, nơi nào có 50 suất đinh trở lên thì được phép lập thôn xã, như vậy có thể đoán trong thời gian này Cù Lao Phố có khoảng 600 đinh, ước độ 2000 dân.

c. Di tích lịch sử - văn hóa:

c1. Hệ thống di tích tín ngưỡng

STT

TÊN

ĐỊA ĐIỂM

XẾP HẠNG

1

Đình Bình Hòa

Ấp Tam Hòa

 

2

Đình Bình Kính (Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh)

Ấp Bình Kính

Di tích cấp quốc gia

3

Đình Bình Quan

Ấp Tam Hòa

Di tích cấp tỉnh

4

Đình Bình Tự

Ấp Nhất Hòa

 

5

Đình Bình Xương

Ấp Nhất Hòa

 

6

Đình Hòa Quới

Ấp Tam Hòa

 

7

Đình Hưng Phú

Ấp Nhất Hòa

 

8

Đình Long Quới

Ấp Tam Hòa

 

9

Đình Tân Giám

Ấp Nhất Hòa

 

10

Đình Tân Mỹ

Ấp Nhị Hòa

 

11

Đình Thành Hưng

Ấp Nhị Hòa

 

12

Thất Phủ cổ miếu (Chùa Ông)

Ấp Nhị Hòa

Di tích cấp quốc gia

 

 

c2. Hệ thống di tích tôn giáo

STT

TÊN

ĐỊA ĐIỂM

XẾP HẠNG

1

Chùa Đại Giác

Ấp Nhị Hòa

Di tích cấp quốc gia

2

Chùa Phước Long

Ấp Tam Hòa

 

3

Chùa  Phước Hội

Ấp Nhất Hòa

 

4

Chùa Hoàng Ân

Ấp Nhị Hòa

 

5

Chùa Chúc Thọ (Thủ Huồng)

Ấp Nhị Hòa

 

6

Tịnh xá Cao Đài

Ấp Nhất Hòa

 

7

Tịnh xá Thắng Liên Hoa

Ấp Nhất Hòa

 

Nguồn: Bảo tàng Đồng Nai

 

Vị trí các công trình tôn giáo tín ngưỡng tại ấp Nhất Hòa, cù lao Phố

Hình ảnh các công trình đền thờ, tôn giáo tín ngưỡng được công nhận trên đất Cù Lao Phố

c3. Nhà cổ và lăng mộ

Ngoài các di tích tín ngưỡng và tôn giáo như Đình, chùa, Miếu, Cù Lao Phố còn là nơi lưu giữ 40 lăng mộ hợp chất, dạng mộ đơn táng có 30 di tích chiếm tỷ lệ 75% tổng số mộ, dạng mộ song táng có 10 di tích chiếm 25% tổng số mộ. Đa phần các mộ nằm trong địa giới ấp Tam Hòa có 24 ngôi mộ chiếm 60% tổng số, bao gồm 7 mộ song táng và 17 mộ đơn táng. Ấp Nhị Hòa có 12 mộ chiếm 30%, bao gồm 2 mộ song táng và 10 mộ đơn táng. Ơ ấp Nhất Hòa chỉ có 4 mộ, chiếm 10%, gồm có 1 mộ song táng và 3 mộ đơn táng. Trong số 40 ngôi mộ, còn 5 di tích có bia sa thạch chiếm 12,5% tổng số mộ, các mộ còn chữ và hoa văn có 14 di tích chiếm 35% tổng số mộ, các mộ có kiến trúc dạng lăng chiếm 4 di tích (10%), các mộ có kiến trúc đặc biệt chiếm 3 di tích (7,5%).

Bản đồ có đánh dấu các vị trí công trình khu vực di tích cần bảo tồn

d. Cơ cấu làng xã, địa bộ

Có thể thấy rằng, với một không gian sinh thái nhỏ hẹp như Cù Lao Phố, thì sự hiện diện của các di tích lịch sử văn hóa như thống kê ở trên là hết sức đa dạng và phong phú. Cù Lao Phố là vùng đất được khai hoang lập xã thuộc loại sớm, ngay từ khi lập làng, lưu dân Việt đã thành lập các cơ sở thuộc thiết chế văn hóa – tín ngưỡng làng xã truyền thống là đình, chùa, miếu, võ. Đình là một cơ sở quan trọng nhất của thôn làng so với các loại cơ sở khác nên luôn được quan tâm trước hết, nhất là khi làng đã thành lập, cơ cấu hương chức đã thành lập để quản lý.

Theo các tài liệu còn lưu lại, thời Nguyễn, ở đây có hơn 10 làng, nên hiện nay, Cù Lao Phố tức xã Hiệp Hòa có 11 ngôi đình. Mặc dù về mặt địa giới hành chính, xã Hiệp Hòa hiện nay chỉ có 3 ấp Nhất Hòa, Nhị Hòa, Tam Hòa trước đây là ba làng, hợp nhất 11 thôn, mỗi thôn có một ngôi đình. Đây là một điều hết sức đặc biệt ở Cù Lao Phố. Theo công trình “Lịch sử và văn hóa Cù Lao Phố” “Tổng số thôn/ làng ở đất Đồng Nai được kê ra đầu tiên là trong Phủ Biên tạp lục (1776) và tên các thôn/ làng ở Cù Lao Phố đều được nêu sớm nhất trong Gia Định thành thông chí (đầu thế kỷ XIX). Điều này đã cho phép chúng ta đoán định ít nhất một số ngôi đình ở Cù Lao Phố có thể được xây dựng muộn sau khi lập làng tức thế kỷ XVIII hay sớm hơn là vào thế kỷ XVII theo sự đòi hỏi của những người đi khai hoang” (2007, 296-297).

Đình, miếu, chợ, chùa là những trung tâm văn hoá của người địa phương cho nên thường xây dựng gần nhau ở khu đông dân cư, nơi cao ráo, có phong cảnh đẹp, có chòm cổ thụ vừa mát vừa oai linh. Phần lớn đình cổ gần sông và quay hướng ra sông, đình trẻ hơn lập ở gần lộ và quay hướng ra lộ, hướng đình không lệ thuộc hướng Nam hay kiêng hướng Bắc. Ở Cù Lao Phố, đình thường quay mặt về hướng Đông, nhiều đình được xây dựng gần sông, mặt tiền hướng ra sông Đồng Nai. Kiến trúc đình thường theo kiểu nhà rường tứ trụ bằng vật liệu tốt khai thác từ địa phương và bàn tay thợ đá, thợ gỗ, thợ gốm của Biên Hoà xưa, tạo cho đình vẻ đẹp mang sắc thái địa phương. Hầu hết trang trí trên các thiết kế của đình đều mang hơi thở của truyền thống với các hình mẫu dân gian truyền thống như hoa lá cách điệu, mai lan trúc cúc, chim muông, cây cảnh, long hổ vân….

Hình tư liệu: bến đò bên sông

e. Dấu tích

Sách Đại Nam Nhất Thống Chí đã ghi nhận cảnh phồn thịnh của Cù Lao Phố ngày trước như một nơi hưng thịnh, thu hút nhiều cư dân đến từ miền Trung. Nhà mái ngói, tường vôi, lầu cao, quán rộng. San sát bên bờ sông là các nhà gổ hai từng, nối liền năm dậm. Ngoài việc xây cất nhà cửa, chợ búa, phát triển các nghề trồng trọt, thủ công nghiệp, Trần Thượng Xuyên còn cho xây ba loại đường rộng, bằng phẳng, đến nay vẫn còn. Con đường giữa theo chiều dài cù lao lót đá ong đỏ, dài độ 4 km, từ chùa Đại Giác đến bến đò Kho. Đường thứ hai, xây ngang cù lao, lót đá trắng chặt con đường giữa cạnh chợ Hiệp Hòa đi đến bến đò Tân Vạn. Con đường thứ ba, lót đá xanh bao quanh cù lao thì hình như đã biến mất dạng, nay chỉ còn vài dấu tích.

Lồng trong ý nghĩa đó là sự hình thành và phát triển của các khu vực làng nghề mang ý nghĩa đời sống sinh hoạt truyền thống đã phát triển một thời hưng thịnh nơi đây:

  1. Nghề làm bột
  2. Nghề làm đường
  3. Nghề trồng dâu dệt lụa
  4. Nghề dệt chiếu
  5. Nghề đúc
  6. Nghề làm đồ gốm

f. Thời kỳ suy vong

Việc Trần Thượng Xuyên cầm binh giúp Chúa Nguyễn lại trở thành một tai họa khi xãy ra cuộc chiến giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh. Trong khoảng những năm 1776- 1779, Cù Lao Phố đã bị tàn phá trong các cuộc giao tranh. Nhà cửa, tiệm buôn, phố xá, kho chứa hàng đều bị thiêu đốt. Đường xá bị đào bới, các cơ sở thủ công tan tành. Dân chúng bị tàn sát, thây lấp hết giòng sông quanh cù lao, nước đỏ ngầu vì máu. Đến cả tháng sau, những người sống sót không ai dám dùng nước ở sông vì ô nhiễm! Cả một vùng thương cảng sầm uất đã thành chiến địa tan hoang. Những người Hoa còn sống sót đã bồng bế nhau lánh nạn về Bến Nghé và là những người đã gầy dựng lại sự nghiệp, thành lập vùng Sài Gòn - Chợ Lớn về sau này.

g. Các khu dân cư lâu đời và làng cá bè phía Bắc

Trên bản đồ hiện trạng, có 03 khu dân cư đông đúc có ý nghĩa được xây dựng lâu đời trên đất Cù Lao, gắn liền với đời sống tập quán và tín ngưỡng tâm linh bao đời nơi đây:

g1. Khu dân cư ấp Nhị Hòa (khu vực đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh trãi dài đến khu trung tâm Cù Lao)

g2. Khu dân cư ấp Nhất Hòa (khu vực đình Bình Tự và khu ven sông phía Bắc)

g3. Khu dân cư ấp Tam Hòa (khu vực đình Long Qưới, rạch Lò Gốm)

g4. Khu nhà ở kiểu làng bè sinh sống bằng nghề nuôi cá trên các nhà nổi trên sông đã tồn tại nhiều năm tại khu vực nhánh sông Cái phía Bắc Cù Lao.

Làng cá bè khu vực sông Cái phía Bắc

h. Cảnh quan ruộng vườn và hệ sinh thái thực vật lâu đời

 

B. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CÙ LAO PHỐ TRONG QHC THÀNH PHỐ BIÊN HÒA ĐÃ ĐƯỢC PHÊ DUYỆT THÁNG 07.2014

Nằm trong chương trình phát triển đô thị chung của TP Biên Hòa, kể từ năm 1999 xã Hiệp Hòa đã được phê duyệt Quy hoạch chi tiết 1/2000, đến năm 2001 tiếp tục phê duyệt Bản đồ chồng ghép quy hoạch. Năm 2003 quy hoạch xã Hiệp Hòa không còn phù hợp theo điều chỉnh QHC TP Biên Hòa được Thủ tướng phê duyệt nên phải tiếp tục điều chỉnh. Từ năm 2007-2011, hồ sơ điều chỉnh xã Hiệp Hòa đã được nộp Sở Xây dựng chờ thẩm định phê duyệt lại phải chờ bổ sung cập nhật do ranh giới TP Biên Hòa có sự thay đổi cũng như các nội dung điều chỉnh trong QHC TP Biên Hòa được phê duyệt mới nhất vào tháng 07.2014.

Quyết định số 2302/QĐ-UBND ngày 25/07/2014 của UBND tỉnh Đồng Nai phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch chung Thành phố Biên Hòa đến năm 2030 và tầm nhìn 2050 do Phân Viện Quy hoạch Đô thị và Nông thôn miền Nam (SIUP) phối hợp với nhóm chuyên gia Nhật thực hiện. Trong đó xã Hiệp Hòa (Cù Lao Phố) có những chức năng vùng như sau:

Bản đồ hiện trạng Cù Lao Phố & Cù Lao Phố trong khu đô thị TT lịch sử (màu vàng: các khu dân cư lâu đời)

Cù Lao Phố (xã Hiệp Hòa) trong tổng thể phát triển QHC TP Biên Hòa

1. Cù Lao Phố thuộc khu vực đô thị Biên Hòa truyền thống:

Khu đô thị trung tâm lịch sử phát triển theo hướng cải tạo chỉnh trang là chủ yếu kết hợp bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa lịch sử, cảnh quan đặc trưng, gồm toàn bộ phần phía Tây Bắc đô thị, giới hạn bởi ranh giới hành chính với tỉnh Bình Dương, xã Bình Hòa huyện Vĩnh Cửu, Trục đô thị, Quốc lộ 1A, Quốc lộ 51; có sông Đồng Nai là trục cảnh quan trung tâm và cù lao Hiệp Hòa (Cù Lao Phố) ở vị trí trung tâm.

2. Cù Lao Phố là khu Trung tâm văn hóa cấp vùng, quy mô: 25 ha.

Khu trung tâm văn hóa tại cù lao Hiệp Hòa gắn với vùng đất có ý nghĩa to lớn về văn hóa lịch sử, nơi lưu giữ các giá trị lịch sử văn hóa hơn 300 năm của vùng đất Biên Hòa-Đồng Nai; Việc phát triển khu nhằm tạo dựng một hình ảnh mới của “Cù lao Phố” mang tính biểu tượng của thành phố văn hóa trong mục tiêu phát triển của đô thị Biên Hòa, kết nối các giá trị lịch sử và đương đại.

(Ảnh bên: Sơ đồ vị trí trung tâm văn hóa cấp vùng)

3. Công viên văn hóa - sinh thái Cù lao Hiệp Hòa (Cù Lao Phố)

Quy mô 220 ha (chiếm 40% diện tích tự nhiên cù lao Hiệp Hòa) là lá phối xanh cho trung tâm thành phố, một không gian công viên chuyên đề kết hợp các hoạt động văn hóa, nghệ thuật và vui chơi giải trí mang tính công cộng, gắn kết không gian với sông Đồng Nai, sông Cái tạo bản sắc đặc trưng cho đô thị;

Trong khu tổ chức không gian các công trình bảo tàng, nhà hát, trung tâm triển lãm, viện nghiên cứu cấp vùng và các khu không gian mở,..; Việc phát triển khu trung tâm gắn với mảng xanh của công viên sinh thái, công viên chuyên đề nhằm bảo tồn làng nghề, bảo tồn các di tích lịch sử văn hóa, bảo tồn không gian sống lâu đời tại cù lao Hiệp Hòa.

Không gian mảng xanh của Cù Lao Phố trong tổng thể QHC

 

C. BÀI TOÁN BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN

Như vậy, với các giá trị quý báu và đặc trưng của một vùng đất lịch sử hơn 300 năm, với một sự cân nhắc và trách nhiệm của những nhà chuyên môn cùng vai trò quản lý của địa phương, suốt từ những ý niệm ban đầu cho việc quy hoạch định hướng phát triển Cù Lao Phố từ những năm 1999 đến nay đã là một thái độ hết sức đắn đo và cẩn trọng.

Với yêu cầu cấp bách của phát triển đô thị, QH chi tiết Cù Lao Phố cần được khẩn trương triển khai thực hiện kịp tiến độ, việc nghiên cứu góp ý xây dựng một hình ảnh đúng đắn cho vùng đất này là một việc vô cùng cần thiết, Hội KTS Đồng Nai cũng đã tổ chức một buổi tọa đàm với nhiều ý kiến đóng góp của các chuyên gia vào đầu tháng 8. 2017, tác giả xin được tóm tắt đề xuất một phương án cụ thể cho Quy hoạch tổng thể phát triển Cù Lao Phố như là một trách nhiệm nghề nghiệp, rất mong được lắng nghe góp ý thêm.

Câu chuyện “muôn thuở” của quy hoạch đô thị cổ đây chính là sự chọn lựa các giải pháp và hình thái cho công việc bảo tồn và phát triển. Hồ sơ quy hoạch chung thành phố Biên Hòa là một cơ sở pháp lý nói lên sự nhất trí cao của việc định hướng phát triển tổng thể đô thị Biên Hòa, mà trong đó Cù Lao Phố đóng góp một ý nghĩa vô cùng quan trọng và tầm giá trị sâu sắc.

Tạo dựng nên một lối sống đô thị mới- văn minh hiện đại trên cơ sở bảo tồn và phục dựng và khai thác giá trị văn hóa lịch sử 300 năm một cách hiệu quả về không gian cảnh quan kiến trúc làng xã đã tồn tại và phát triển lâu đời tại đây. Đặc biệt việc quy hoạch phục hồi và phát triển lại các khu vực làng nghề mang giá trị văn hóa bản sắc đặc thù của Cù Lao Phố rất cần được chủ trương đúng đắn và kịp thời gắn liền với hồ sơ quy hoạch kỳ này.

Song song đó, cần thiết phải có một thái độ ứng xử phù hợp và hiệu quả với loại hình nhà ở “làng bè” bao quanh chu vi phía Bắc Cù Lao khu vực sông Cái, cần có một nghiên cứu đánh giá chi tiết và rõ nét về các giá trị kinh tế, ý nghĩa khai thác nét kiến trúc cảnh quan đặc thù sông nước… của loại hình cư trú và sinh hoạt mang ý nghĩa lâu đời của người dân nơi đây. Từ đó xác định quy mô tính chất và phân khu chức năng tạo sự kết nối đồng bộ trong tổng thể quy hoạch Cù Lao trong giai đoạn trước mắt và lâu dài.

Hình ảnh làng cá bè mang đậm nét sông nước tại phía Bắc Cù Lao Phố

 

D. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT CỤ THỂ TRONG CÔNG TÁC QUY HOẠCH MỚI CÙ LAO PHỐ

1. Đối với các khu ở hiện trạng lâu đời:

Cần thiết được quy hoạch giữ lại với mức độ cao nhất, chính nơi đây còn lưu lại đậm nét giá trị bản sắc của nếp văn hóa sinh hoạt tâm linh tín ngưỡng từ bao đời, các công trình di sản đã được công nhận cũng như các công trình còn lại đang được tiếp tục nghiên cứu khảo sát và đánh giá sắp tới. Tại một số khu vực phù hợp sẽ quy hoạch khai thác các loại hình du lịch nghỉ dưỡng dạng “homestay” mang đậm chất “khai phá” của những cư dân đã có mặt đầu tiên từ những ngày mở cõi phương Nam.

Cần có bài toán cụ thể và hiệu quả cho việc quy hoạch sắp xếp lại khu nhà ở làng bè trên sông Cái tạo nét độc đáo riêng cho cảnh quan sông nước vốn có của vùng đất này.

2. Khu vực các công trình di tích:

Cần nêu bật được các đánh giá cụ thể chi tiết trên bản đồ hiện trạng về các công trình hạng mục và khu vực cần xem xét bảo tồn, di dời hoặc nâng cấp, bao gồm các công trình di tích- di sản, nhà cổ, mộ táng… Trong đó cần phân định rõ sự quan trọng cần thiết của khu vực đất công trình lịch sử bảo tồn, khoảng cây xanh bảo tồn và cách ly cần thiết bắt buộc theo Luật bảo tồn di sản (vành đai 1 -2 và 3). Triển khai thành lập Bản đồ di sản cho khu vực Cù Lao Phố, trên cơ sở đó mới tiến hành việc tổ chức quy hoạch phân khu chức năng đảm bảo tính hợp lý và khả thi.

3. Khảo sát, bổ sung làm rõ các vị trí, quy mô khu vực làng nghề lâu đời tại đây, từ đó xác định các yếu tố cần thiết để đưa vào trong quy hoạch các không gian khu ở hiện hữu chỉnh trang, kết hợp với yếu tố khai thác du lịch- văn hóa lịch sử tạo bản sắc riêng cho Cù Lao Phố.

4. Khai thác và bảo tồn không gian mảng xanh, hệ thực vật lâu đời: Xen kẻ với các công trình văn hóa tôn giáo tín ngưỡng lâu đời là hệ thực vật cổ thụ hàng trăm năm tuổi, hệ sinh thái ruộng vườn cần được kiểm tra khoanh vùng bảo vệ và phát huy được giá trị chức năng và ý nghĩa “lá phổi xanh” hài hòa và độc đáo của Cù Lao trong tổng thể TP Biên Hòa đã được phân công. Hạn chế tối đa việc giải tỏa di dời các công trình gắn liền với khu vực cây xanh lâu năm, bài toán quy hoạch là tìm giải pháp và đề xuất ra các loại hình và cách làm cụ thể phù hợp cho từng công trình và khu vực bảo tồn.

5. Tính toán phân biệt rõ tính chất loại hình quy mô và hình thái cho từng loai khu vực cây xanh cảnh quan nằm trong cấu trúc “lá phổi xanh”, bao gồm: cây xanh cảnh quan, công trình văn hóa lịch sử, sinh thái, du lịch- nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí, bảo tồn, cách ly bảo vệ vành đai bờ sông rạch, nguồn nước… trên cơ sở tính toán về quy mô, loại hình theo yêu cầu công năng cho từng loại hình… đáp ứng cao nhất giá trị quý báu duy nhất của vùng đất Cù Lao trong cơn lốc đô thị trong những năm của thế kỷ 20!

6. Với giá trị là một khu thương cảng sầm uất thời mở cõi, việc đề xuất phục dựng một vị trí thuận lợi phù hợp và có ý nghĩa cho hình ảnh một thương cảng Nông Nại Đại Phố là một việc vô cùng cần thiết trong công tác quy hoạch tổng thể Cù Lao lần này. Vị trí đề xuất phù hợp nhất là trên tuyến sông Đồng Nai (khu vực “quảng trường nước”) nối kết giao thông đường thủy liên vùng. Đây chính là một yếu tố cảnh quan đặc thù, là môt thế mạnh trong việc giới thiệu giá trị hình thành một vùng đất trong tổng thể khai thác các tua tuyến du lịch liên vùng khu vực TP Biên Hòa, TP HCM và các tỉnh miền Tây.

7. Khu nhà ở tái định cư không nên quy hoạch bố trí thành một cụm lớn riêng biệt, chỉ nên sắp xếp bố trí xen kẻ kết nối hoặc tiếp cận trong hoặc ven các khu dân cư hiện hữu để tránh gây xáo trộn lớn về sinh hoạt đi lại và tập quán tín ngưỡng lâu đời của người dân nơi đây, đồng thời với giải pháp này sẽ là điều kiện duy trì và phát triển hình thái nhà ở và sinh hoạt các cụm dân cư theo tính chất hiện hữu lâu đời được bảo tồn một cách đặc sắc và có ý nghĩa.

8. Khu nhà ở cao tầng, trục trung tâm: Trong định hướng kết nối giao thông với trục từ hướng trung tâm của TP Biên Hòa với Cù Lao Phố phía Băc trong hồ sơ QHC TP Biên Hòa, cần thiết xem xét dịch chuyển tuyến này một đoạn về phía Nam (khu vực đất trống- ruộng vườn, xem trên phương án đề xuất) để tránh ảnh hưởng các khu vực mang giá trị lâu đời cần bảo tồn tại khu dân cư ấp Nhị Hòa, nên có giải pháp bố trí xen kẽ các khu vực dân cư hiện trạng đông đúc với các khu định hướng phát triển kiến trúc cao tầng nhằm tạo bộ mặt cảnh quan đô thị nhưng vẫn giữ gìn tôn tạo, đảm bảo sự cân bằng và đồng bộ trong sự nghiệp bảo tồn và phát triển.

9. Phát triển đô thị Hiệp Hòa cần khai thác tối đa tầm nhìn về hình ảnh một đô thị đậm chất sông nước: Yếu tố sông nước là một hình ảnh đặc trưng và đã góp phần to lớn trong việc tạo ra diện mạo riêng cho vùng đất Cù Lao Phố qua quá trình phát triển hơn 300 năm nay: giao thông thủy, thương cảng sầm uất, nơi quần tụ của nhiều tộc dân, vùng đất lưu truyền của nhiều nền văn hóa tín ngưỡng đặc sắc… gắn liền với sông nước. Mặt nước rộng thoáng của dòng sông Đồng Nai nằm tiếp giáp phía Tây Nam Cù Lao Phố chính là một “quãng trường nước” với đầy đủ những ý nghĩa và công năng tạo dựng một hình ảnh đô thị kết nối với tổng thể khu vực, nơi đây sẽ là các khu trung tâm văn hóa sinh hoạt giao thương đúng nghĩa đối ngoại của vùng sinh thái Cù Lao Phố (như lời góp ý rất tâm huyết của KTS Nguyễn Văn Tất- một người con của đất Biên Hòa), còn lại các khu vực bên trong cố gắng bảo tồn được tối đa nhất trong điều kiện có thể.

10. Quy hoạch Cù Lao Phố với khai thác quảng bá du lịch: Với những công trình văn hóa di sản vật thể và phi vật thể độc đáo trên vùng đất Cù Lao Phố được hệ thống tôn tạo và bảo tồn phát huy một cách bài bản và hiệu quả, việc quy hoạch thiết kế các chương trình khai thác kết nối hình ảnh du lịch với tổng thể khu vực TP Biên Hòa và tỉnh Đồng Nai với các khu vực lân cận sẽ là một trọng điểm góp phần quảng bá hình ảnh vùng đất Cù Lao Phố trong lịch sử mở cõi phương Nam của ông cha ta.

Phương án kiến nghị của tác giả về định hướng phân khu chức năng cho quy hoạch Cù Lao Phố

 

E. KẾT LUẬN

Thật ra, bảo tồn di sản và phát triển là 2 vấn đề tuy đối lập nhưng có mối quan hệ hữu cơ hết sức mật thiết. Muốn cho TP Biên Hòa hiện đại giàu bản sắc thì đòi hỏi trong quá trình phát triển đô thị phải quan tâm tới việc bảo tồn các di sản kiến trúc. Trong quá trình hình thành và phát triển của thành phố đã để lại cho Cù Lao Phố hôm nay nhiều công trình mang ý nghĩa tôn giáo văn hóa và lịch sử, giàu giá trị về mặt nghệ thuật và có chiều sâu về mặt tâm linh tín ngưỡng. Bảo tồn di sản kiến trúc đô thị để phát triển, phát triển đô thị cần phải bảo tồn các di sản kiến trúc mà đô thị để lại. Đó là 2 mặt tương hỗ, hướng đến mục tiêu phát triển TP Biên Hòa là một đô thị theo tiêu chí bền vững, tự hào và đáng sống.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Bảo tàng Cách mạng TPHCM, 1998, Di tích lịch sử văn hóa TPHCM, TPHCM, Nxb Trẻ.

Huỳnh Đỉnh Chung, 1995, Chùa Ông (Quảng Triệu Hội quán), Cần Thơ, Bản đánh máy, Bảo tàng tỉnh Cần Thơ.

Nguyễn Đức Lộc, 2002, Đình cổ ở Cù Lao Phố - Báo cáo khoa học,TPHCM, Trường Đại học KHXH &ø NV Tp. HCM.

Huỳnh Lứa (chủ biên) 1987, Lịch sử khai phá vùng đất Nam bộ, TPHCM, Nxb Tp. HCM.

Lương Văn Lựu, 1997, Biên Hòa sử lược, Biên Hòa, Nxb Kim Anh.

Huỳnh Ngọc Trảng (chủ biên), 1997, Lịch sử văn hóa Cù Lao Phố, Đồng Nai, Nxb Đồng Nai.

Pierre Nora, Những di chỉ của ký ức, 2009, Hà Nội, Nxb Tri Thức.

Huỳnh Ngọc Trảng (chủ biên), Lịch sử và Văn hóa Cù Lao Phố, 2007, Đồng Nai, Nxb Tổng Hợp. Tr36.

Huỳnh Ngọc Trảng, Trương Ngọc Tường, 1999, Đình Nam bộ xưa và nay, Đồng Nai, Nxb Đồng Nai.

Huỳnh Ngọc Trảng, Trương Ngọc Tường và Hồ Tương, 1993, Đình Nam bộ- tín ngưỡng và nghi lễ, TPHCM, Nxb Tp. HCM.

Nguyễn Cẩm Thùy, 2000, Định cư của người Hoa trên đất Nam bộ từ thế kỷ XVIII đến năm 1945, Hà Nội, Nxb KHXH.

Nguyễn Thị Toàn Thắng, 2008, Quần thể di tích lịch sử - văn hóa mộ hợp chất Cù Lao Phố (Biên Hòa – Đồng Nai), luận văn thạc sĩ.

 

KTS Nguyễn Mạnh Dũng

Phó chủ tịch Hội KTS Đồng Nai

Bình luận từ người dùng

1
2
3
4
5
6
7
8
TRE - BAMBOO
1267
Tre xoắn ốc và xoắn (spirals and twists) trong các hình thức kiên strúc hấp dẫn! Công viên Đô thị Cải tạo Vi mô (Urban Park Micro Renovation) của Trường kiến trúc Atelier cnS, Đại học Công nghệ South China trình bày một số công trình kiến trúc lượn sóng thú vị làm từ tre. Từ khóa: parametric architecture, kiến trúc tham số,
Giới thiệu
Liên hệ
Nhật ký độc giả
VI | EN
Link đã được copy